Trung Quốc: Sản xuất đô thị hàng loạt

Chủ nhật, 17 Tháng 1 2010 21:03 IMV-Hanoi
In

Quá trình phát triển đô thị ở Trung Quốc đang khiến mọi người ngưỡng mộ. Tốc độ đô thị hoá tại quốc gia đông dân này tạo ra một làn sóng “du lịch đô thị” thực sự của các chuyên gia trên toàn thế giới. Người ta đổ về đây để ngắm nhìn những thành phố đang hình thành với những ánh mắt đầy ngạc nhiên. Nhưng đằng sau sự ngạc nhiên đó là hàng loạt câu hỏi: Làm sao điều đó có thể xảy ra? Liệu có đảm bảo bền vững hay không?


Dự án Dongtan eco city

Đối với một người nước ngoài, việc tìm hiểu thực tế đầu tư xây dựng đô thị ở Trung Quốc là một điều rất khó bởi đó là một lĩnh vực vừa phức tạp vừa không thực sự rõ ràng. Điều đó bắt nguồn từ tình trạng thiếu những tài liệu có tính chất mô tả, nêu vấn đề hoặc phê bình bằng tiếng Anh hoặc các thứ tiếng nước ngoài khác trong khi khả năng gặp gỡ những nhà quản lý trong lĩnh vực quy hoạch cũng không thực sự dễ dàng bởi quy hoạch đô thị vẫn được coi như một lĩnh vực rất nhạy cảm: các cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương đều không tiết lộ nhiều và cũng hạn chế các nội dung tranh luận. Trong khi tại Pháp người ta có thể dễ dàng tiếp cận các cơ quan hữu quan, các nhà chính trị, điều chỉnh lại các mong muốn và các quy trình thực hiện, xem xét mối quan hệ giữa thành công và thất bại, tham khảo các số liệu tài chính, v.v… thì ở Trung Quốc, dường như mọi thứ đều không thực sự công khai: cần hết sức kiên nhẫn và phải tạo được lòng tin với một số bên đối thoại thì mới có thể nắm bắt được một vài thông tin và phân tích được những yếu tố thoạt nhìn có vẻ rất hiển nhiên bởi những đô thị lớn ở Trung Quốc là những trường hợp đặc biệt.


Dự án Dongtan 

Thị trưởng – những công chức chuyên về xây dựng

Về mặt lý thuyết, người ta có thể nắm bắt được cơ cấu tổ chức của hệ thống chính quyền Trung Quốc, nhưng trên thực tế chỉ có hai cách để tìm hiểu về các cách làm, những xung đột giữa các cơ quan chính quyền địa phương và những tác động đối với công tác quy hoạch và phát triển đô thị, đó là thông qua những tài liệu chính thức được công bố và một số bài báo do của những nhà báo được đặt hàng để viết. Các thị trưởng được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 4 năm. Họ không phải bận tâm nhiều đến việc giải trình với người dân mà chỉ cần giải trình với lãnh đạo cấp tỉnh hoặc đối với 5 đô thị lớn thuộc diện thành phố trực thuộc trung ương thì chỉ cần giải trình với chính quyền trung ương. Vả lại, với thời hạn nhiệm kỳ ngắn, họ phải nhanh chóng chứng tỏ được năng lực lãnh đạo của mình thông qua các công trình xây dựng để đến nhiệm kỳ sau lại tiếp tục được cấp trên lưu ý tái bổ nhiệm. Họ cũng được đánh giá về mức độ năng động và khả năng kiểm soát xã hội. Vậy nên tốc độ phát triển của đô thị ở Trung Quốc đang song hành với những nhiệm kỳ ngắn hạn của các bộ máy chính quyền cấp địa phương cũng như những nét đặc thù của quan hệ phụ thuộc giữa các cấp chính quyền. Trung Quốc đang trải qua giai đoạn các thị trưởng chỉ chú trọng tới xây dựng. Chất lượng của các dự án quy hoạch phát triển đô thị cũng như các phương pháp được sử dụng cũng phụ thuộc vào cá tính của từng thị trưởng cũng như văn hoá của họ. Việc áp dụng pháp luật chưa thực sự đồng đều và một số cách làm đôi khi còn mạnh tay.

Các đô thị ở Trung Quốc không chịu sự chi phối về cách phân chia địa giới theo cấp xã quá phức tạp như ở Pháp. Cách phân chia địa giới hành chính được thực hiện theo một phương thức đơn giản, có tính áp đặt và hành chính. Do đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn tính đến những thách thức về mặt đô thị căn cứ theo từng cấp độ chính trị và không ngần ngại mở rộng đô thị về mặt hành chính khi cần thiết (gần giống như cách làm của Mỹ) theo những cách làm không có sự tham gia nhiều của người dân.

Đơn giản hoá vai trò chủ đầu tư

Việc thực hiện vai trò chủ đầu tư của chính quyền thành phố dường như được đơn giản hoá tới mức cực độ. Vai trò đó dựa trên các viện quy hoạch đô thị của từng thành phố lớn. Nói cách khác, chính sách quy hoạch của các thành phố đều dựa trên các viện quy hoạch của thành phố đó. Các cơ quan này quản lý tất cả, từ xác định những thách thức về phát triển đô thị đến soạn thảo các quy định quản lý đô thị cho tới giám sát các dự án. Đối với trường hợp của những vùng đô thị lớn, công tác này có thể được giao cho những đơn vị ở cấp thấp hơn. chẳng hạn tại 20 quận của thành phố Thượng Hải, mỗi quận đều có một cơ quan chuyên trách rất quan trọng là phòng quản lý đất đai. Cơ quan này cấp phép xây dựng và xác định mức thuế đất áp dụng đối với các chủ đầu tư kinh doanh bất động sản dựa trên chương trình đã được định sẵn. Nếu xét về mức độ quan trọng thì sau phòng quản lý đất đai là phòng quy hoạch đô thị, phòng giao thông và phòng thanh tra xây dựng.

Đội ngũ nhân sự của các cơ quan này còn khá mỏng. Phòng quản lý đất đai của quận Từ Hối chỉ có 50 người, trong đó có 24 cán bộ, trong khi phải quản lý một địa bàn 1,1 triệu dân. Tương tự như vậy, phòng quản lý đất đai của thành phố Vũ Hán, một trong những thành phố lớn ở miền trung với quy mô dân số 8,8 triệu dân, cũng chỉ có 220 người. Bên cạnh đó cũng có các cộng tác viên nhưng thường rất trẻ (25 đến 35 tuổi) và có mức lương rất khiêm tốn.

Với tốc độ đô thị hoá ngày càng tăng, có thể hiểu rằng có hai phương thức chính để thực hiện vai trò chủ đầu tư của chính quyền. Thứ nhất, chính quyền cấp địa phương, cấp vùng hoặc cấp trung ương trực tiếp quản lý về mặt chính trị đối với các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản (ngoài ra không một tác nhân nào khác từ bên ngoài có thể tham gia quản lý). Thứ hai là áp dụng một hệ thống các tiêu chuẩn chính xác được quy định trên toàn quốc thông qua một đội ngũ nhân sự thường phải quản lý cùng lúc nhiều dự án. Cách làm đó khác xa với cách làm ở Pháp, nơi mà quá trình triển khai được thực hiện dần từ chương trình phát triển đô thị tới dự án hoặc ngược lại, rất thực tế và không chịu sự chi phối của một tiêu chuẩn nào mang tính hành chính.

Quy hoạch giữa chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa thực dụng

Từ 20 năm qua, hệ thống quy hoạch đô thị ở Trung Quốc không hề thay đổi trong khi quá trình bùng nổ đô thị hoá (mỗi năm xuất hiện thêm 20 triệu dân đô thị) và bùng nổ các doanh nghiệp luôn đặt ra yêu cầu phải thường xuyên xem xét lại các mục tiêu. Thực tế cạnh tranh giữa các đô thị luôn thay đổi nhanh hơn các văn bản pháp quy và các nhà lãnh đạo luôn biết chứng tỏ mức độ linh hoạt của mình.


Shenzhen, China

Với quy mô lãnh thổ tương đương cả một tiểu lục địa, Trung Quốc là nơi được áp dụng nhiều cách làm quy hoạch rất thực dụng và phong phú mặc dù bề ngoài các nhà lãnh đạo luôn tuyên bố là cùng áp dụng một cách làm thống nhất. Dù rất cố gắng hạn chế việc hình thành các siêu đô thị nhưng cuối cùng họ lại vận dụng chính hình thức đó. Cách làm quy hoạch theo kiểu tập trung tuy đã lỗi thời nhưng vẫn còn giữ được một chức năng cơ bản là về mặt quản lý quỹ đất công, tức là toàn bộ những khu đất chưa được phát triển. Cơ chế quản lý đó được áp dụng ở mọi cấp độ, tới tận cấp thành phố, thậm chí cấp quận, huyện. Nhưng trên thực tế, bên cạnh những sơ đồ quy hoạch chi tiết xác định rõ phạm vi từng khu vực dân cư hay sản xuất vẫn có một số khu vực được quy hoạch theo sáng kiến của khu vực tư nhân với mức độ đa dạng rất cao. Tại các khu vực nông thôn hoặc xung quanh các đô thị nhỏ và vừa, tình trạng đô thị hoá đã lấp đầy những khu vực còn sót lại nằm kẹt giữa các khu khác đã phát triển đô thị. Kết quả đó là do chủ trương của những chủ tịch xã hoặc những thị trưởng phát huy được vị thế của mình. Như vậy, ở đây luôn tồn tại một hệ thống quản lý quy hoạch song song giữa những tuyên bố mạnh mẽ thể hiện tính thống nhất và những cách làm trên thực tế rất đa dạng. Còn các nhà quy hoạch thì luôn biết nắm bắt và lựa theo tình hình một cách rất linh hoạt.

Sự thay đổi các nền tảng của nền kinh tế đô thị và lợi nhuận cao về nhà đất là những nguyên nhân dẫn đến quá trình quy hoạch kiểu “linh hoạt” như vậy. Từ một nền kinh tế khép kín và hoàn toàn được phát triển theo các kế hoạch lập sẵn cả về mặt kinh tế và không gian, Trung Quốc đã vươn lên trở thành một “công xưởng của thế giới”. Hầu hết các đô thị đều chuyển mình từ sản xuất công nghiệp sang một nền kinh tế tập trung mạnh vào dịch vụ dựa trên những địa bàn đô thị ngày càng được mở rộng. Các đô thị lớn đều được phát triển theo những tiêu chuẩn của các siêu đô thị tầm cỡ thế giới với chủ trương xây dựng một nền kinh tế hướng tới xuất khẩu.

Cùng với xu hướng dịch cư nông thôn và sự thay đổi cấu trúc của các gia đình cũng như những thay đổi về lối sống, sự gia tăng dân số tại các đô thị phụ thuộc vào các khả năng đáp ứng của chúng để đảm bảo sự chuyển dịch từ một hệ thống kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất công nghiệp sang một nền kinh tế đô thị toàn diện. Các chủ thể tham gia làm quy hoạch đã tính đến ưu thế kinh tế này song cũng chú ý tới đặc tính thiếu ổn định vốn luôn đi kèm với mô hình kinh tế đó. Trong bối cảnh đó, khả năng tiếp cận được thị trường nhà đất là một yếu tố biến thiên. Do những yêu cầu cấp bách, người ta có thể xây dựng các toà nhà trước rồi các công trình hạ tầng kỹ thuật mới được xây sau. Chừng nào các công trình này chưa hoàn thành thì người dân sống trong những khu vực đó phải tự xoay sở. Thị trường nhà đất với mức lợi nhuận cực lớn có được sự hậu thuẫn của một bối cảnh nền kinh tế nói chung đang thay đổi mạnh mẽ về bản chất. Thông thường các đồ án quy hoạch ưu tiên hướng tới các đối tượng kinh doanh bất động sản, còn những lĩnh vực khác thường để xem xét sau, thậm chí hoãn lại nếu đó là những công trình hạ tầng giao thông quy mô lớn. Các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản không có trách nhiệm phải đảm bảo gắn các khu nhà ở với những nơi tạo công ăn việc làm. Họ chỉ có nhiệm vụ làm ra lợi nhuận trong khuôn khổ đã được định sẵn bởi các quy định hành chính đơn thuần.



Các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản: chủ đầu tư thực sự tại các thành phố lớn

Những tác nhân có vai trò quan trọng then chốt trong quá trình đô thị hoá ở Trung Quốc chính là các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản (NĐTBĐS). Trong số này, đa phần là tư nhân và đều có những mối quan hệ rất đa dạng với các cấp chính quyền. Họ cũng chính là những người thực hiện quy hoạch trên những lô đất rất lớn tương đương cả một ô phố. Các dự án của họ được thực hiện sau khi đã tiến hành bán đấu giá hoặc đấu thầu công đối với đất đai. Họ cũng có thể tận dụng các cơ hội thuận lợi để tiếp cận với chính quyền các cấp và đề xuất những ý tưởng của mình. Hiện nay tại Trung Quốc tồn tại hai thị trường nhà đất khu vực ven đô hoạt động dựa trên những nền tảng khác nhau:

Như vậy, thị trường nhà đất Trung Quốc hoàn toàn chịu sự thống trị của các chủ thể thuộc khu vực Nhà nước. Nhờ có hệ thống luật pháp quy định rằng chỉ được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ không phải quyền sở hữu đất (vì quyền này thuộc sở hữu toàn dân) nên các giao dịch chuyển nhượng trực tiếp giữa các chủ thể tư nhân xét về mặt lý thuyết đều bị cấm. Do các dự án rất đa dạng nên khó tránh khỏi những thắc mắc về việc căn cứ theo những tiêu chí nào mà chính quyền lại giao đất cho nhà đầu tư này chứ không phải nhà đầu tư khác. Nếu quan sát một cách khách quan thì có thể xác định được một số tiêu chí như sau:

Trong những quá trình lựa chọn đó, thật đáng ngạc nhiên là vấn đề mức thuế đất chỉ thuộc hàng thứ yếu. Do vậy, NĐTBĐS có thể thu được nguồn lợi nhuận tối đa nhờ giá bất động sản tăng nhanh hơn rất nhiều so với mức tăng thuế đất. Khi chính quyền đã ra quyết định, nhà đầu tư sẽ được giao thực hiện dự án đô thị và tiến hành các nghiên cứu quy hoạch căn cứ theo những lợi ích của từng dự án ở tầm ngắn hạn hay trung hạn. Các giai đoạn khác nhau của dự án sẽ được các đơn vị tư nhân lập kế hoạch thực hiện, nhưng luôn có sự trao đổi thảo luận với các cơ quan quản lý quy hoạch phát triển đô thị. Những cơ quan này kiểm soát việc áp dụng nhiều tiêu chuẩn khác nhau đối với khu vực được quy hoạch. Số lượng tiêu chuẩn nhiều hay ít tuỳ thuộc vào những thách thức đặt ra đối với địa bàn đó. Một NĐTBĐS từng thực hiện dự án cải tạo một khu vực quanh một hồ nước ở Bắc Kinh cho biết họ đã từng phải phác thảo tới 33 bản phối cảnh khác nhau liên tục trong suốt 4 năm liền. Trong khi đó, ở Vũ Hán, công ty Shui On Land cũng phải dành tới một năm để xác định được định hướng quy hoạch đối với một khu đất công nghiệp cũ bị bỏ hoang nhưng rồi cuối cùng đã được cấp phép xây dựng với tổng diện tích sàn lên tới 1,2 triệu m2 !

Những khác biệt về văn hoá và kinh nghiệm của các NĐTBĐS là những lý do chính dẫn đến sự đa dạng về chất lượng của các dự án phát triển đô thị. Ngay từ giai đoạn xây dựng nền móng, các dự án này đã thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền mặc dù trên thực tế chính quyền vẫn có thể tiếp tục can thiệp thông qua các quy định quản lý (chẳng hạn giảm bớt các tiêu chuẩn về mật độ hoặc độ cao trong khi nhà đầu tư đã tiến hành thi công). Trong phạm vi khu vực thực hiện dự án của mình, NĐTBĐS có đủ mọi quyền hành và sẵn sàng áp dụng những định hướng quy hoạch đôi khi có thể đi ngược lại với dự án đô thị tổng thể. Họ cũng không có nghĩa vụ phải phối hợp với những chủ đầu tư hoặc chủ sở hữu của những khu đất lân cận. Do đó, những tuyến đường nội bộ bên trong các khu dự án có thể không còn tuân theo các bản vẽ quy hoạch ban đầu và hiện tượng chiếm dụng nốt toàn bộ các khoảng trống xung quanh công trình dễ dẫn đến tình trạng xoá bỏ các không gian công cộng. Kết quả là đô thị ở Trung Quốc có thể mang diện mạo chắp vá với những toà nhà không hề tạo được sự hài hoà với nhau và có đặc điểm kiến trúc chỉ chạy theo phong cách nhất thời (có thể thay đổi rất nhanh…).

Chỉ đạo quy hoạch phát triển đô thị trong bối cảnh nhiều đòi hỏi cấp bách

Những đòi hỏi cấp bách này là sự chỉ đạo ngay từ đầu của chính quyền trung ương, cơ quan kiểm soát guồng máy kinh tế và ra quyết định về các dự án xây dựng có quy mô lớn kéo dài nhiều năm liền. Khối lượng xây dựng đồ sộ đó tiếp tục được phân bố tuỳ theo các vấn đề ưu tiên và các mối tương quan lực lượng về mặt chính trị, giữa các tỉnh và các thành phố trực thuộc trung ương. Những định hướng này được chuyển xuống các cấp trực thuộc một cách máy móc và cuối cùng là đến các phòng quy hoạch phát triển đô thị, theo đó mỗi năm lại có một số lượng diện tích đất được thể hiện thành khối lượng xây dựng cần thực hiện cũng như lượng bất động sản được bán phù hợp với nguồn kinh phí cần thiết cho hoạt động của thành phố. Các NĐTBĐS phải nắm được những thông tin này và đôi khi phải biết chủ động đề xuất với chính quyền thành phố.

Không chỉ dừng lại ở cách quản lý kiểu hành chính như vậy, quá trình phát triển đô thị trong bối cảnh có nhiều đòi hỏi cấp bách còn đặt ra nhiều vấn đề đáng quan tâm. Khi các chủ thể tư nhân được giao phó vai trò dẫn dắt sự phát triển đô thị, chính quyền các cấp không còn giữ được cho mình những công cụ đảm bảo cho thị trường nhà đất vận hành dựa trên những nền tảng minh bạch. Toàn bộ hệ thống đô thị ở Trung Quốc hiện nay là một người khổng lồ đứng trên đôi chân bằng đất sét vì nhiều lý do về chính trị, kinh tế cũng như về mặt tổ chức hành chính.

Quả thực dưới áp lực của các cơ quan hành chính trung ương, các cấp chính quyền địa phương phải tìm mọi cách để góp phần đảm bảo tỷ lệ tăng trưởng toàn quốc thông qua việc sử dụng triệt để các thẩm quyền của mình trong lĩnh vực quy hoạch, xây dựng những dự án phát triển đầy tham vọng, xác định các khu vực tăng trưởng và mua lại quyền sử dụng đối với nhiều diện tích đất nông thôn, kể cả đất nông nghiệp. Trong khuôn khổ của một nền kinh tế thị trường còn non trẻ và chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng, họ đã cố gắng tạo ra một nền kinh tế đẩy mạnh phần cung, trong nhiều trường hợp rơi vào tình trạng phi thực tế, bởi phần cầu không thực sự đạt được mức như họ mong muốn.



Khi quá vội vã tham gia vào một thị trường nhà đất, trước hết họ chuyển nhượng quyền sử dụng đối với những khu đất có chất lượng tốt nhưng nằm ở những vị trí không thực sự đắc địa, như vậy họ đã thúc đẩy các cơ chế đầu cơ và trở thành nguyên nhân gây ra những rủi ro lớn về mặt tài chính trong tương lai. Họ chịu trách nhiệm mở rộng đô thị trong khi các công trình hạ tầng kỹ thuật cơ bản còn chưa thực hiện (đặc biệt là hạ tầng giao thông công cộng). Cũng chính họ đã góp phần tạo ra những cuộc biểu tình ở khu vực nông thôn. Chính quyền các địa phương đã bỏ hoang hoá nhiều khu đất công nghiệp cũ ngay trong trung tâm thành phố hoặc không hề quy định các tiêu chuẩn đủ để đảm bảo khử ô nhiễm công nghiệp tại các khu vực này. Đây cũng là những nguy cơ tiềm ẩn đối với tương lai. Trong các chính sách nhà đất tại địa phương, họ chỉ dành một vị trí rất khiêm tốn cho vấn đề đảm bảo nhà ở cho các tầng lớp bình dân và trung lưu, còn chú trọng cho những dự án cung cấp nhà ở cho các tầng lớp khá giả mới nổi.

Do nhận thức được rõ rằng các dự án văn phòng và trung tâm thương mại là những con “gà đẻ trứng vàng” cho hệ thống đầu tư tài chính cho đô thị hoá, chính quyền các địa phương đã tăng cường cấp phép cho giới đầu tư kinh doanh bất động sản, song rất ít quy định quản lý thực sự được áp dụng và rất ít định hướng quy hoạch đô thị chặt chẽ chi phối các dự án đó. Các công trình thường có chất lượng rất thấp hoặc có vị trí không thuận lợi. Tất cả các thành phố đều mang đậm dấu ấn của cách quy hoạch theo phân khu như vậy, tính xen kẽ trong cấu trúc đô thị rất yếu.

Trong bối cảnh một hệ thống quản lý dành nhiều ưu đãi cho cơ chế thị trường và nguồn thu từ thuế của các địa phương thường bị thâm hụt, chính các khoản thu từ cấp phép xây dựng là một trong những cơ sở quan trọng đảm bảo nguồn kinh phí cho công tác đầu tư và hoạt động của các đô thị. Để giải quyết những đòi hỏi về kinh phí cho quá trình đô thị hoá những địa bàn mới, chính quyền các địa phương luôn mở rộng cửa cho các dự án đô thị hoá.



Thời gian và tiền bạc

Khi có sự chênh lệch quá lớn giữa cung và cầu trong cả hai khía cạnh nhà ở và văn phòng, sự cạnh tranh được đẩy lên đến mức cao độ và tất cả các tác nhân đều được khuyến khích phải đẩy mạnh quá trình “sản xuất” đô thị càng nhanh càng tốt, kể cả trong việc thương lượng cấp phép xây dựng (khoảng hai hoặc ba tháng với nhiều lần chuyển đi chuyển lại hồ sơ). Sự tăng vọt của giá cả trên thị trường bất động sản là một động lực thúc đẩy quá trình đô thị hoá, song không có nghĩa là các toà nhà sau khi hoàn thiện được đưa vào kinh doanh ngay bởi vẫn có hiện tượng đầu cơ của nhiều nhà đầu tư BĐS. 

Trong khi ở các nước phương Tây, việc kiếm được quá nhiều tiền trong một thời gian ngắn thường bị coi là một dấu hiệu đáng nghi ngờ, ngay cả khi đó là trường hợp của những NĐTBĐS, thì tại Trung Quốc điều đó lại thường được đánh giá như một dấu hiệu tích cực, thậm chí là một tấm gương về sự thành đạt. Vốn là một công cụ và cũng là một mục tiêu cần phấn đấu trong cuộc sống của người Trung Quốc, tiền bạc luôn tạo ra một “cơn khát” về xây dựng bởi đây chính là lĩnh vực cho phép kiếm được những khoản lợi nhuận kếch xù một cách nhanh nhất. Trong một bối cảnh như vậy, hệ thống ngân hàng đã có một sự thay đổi sâu sắc và bắt đầu tham gia rót vốn cho những dự án đô thị hoá với quy mô khổng lồ. Cũng nhờ vào lĩnh vực xây dựng mà nhiều ngân hàng của Trung Quốc sẵn sàng cho cuộc chinh phục các thị trường tài chính quốc tế.

Đầu tư tài chính cho quy hoạch và vấn đề thuế

Trong giai đoạn cất cánh của cả nền kinh tế và hệ thống đô thị như hiện nay, cả hai vấn đề đầu tư tài chính cho quy hoạch và hệ thống thuế địa phương đều được hiểu và diễn đạt một cách hết sức đơn giản. Các đô thị đều chưa có một hệ thống thuế đất thực sự. Đất đai của Nhà nước thường được cho thuê dài hạn và có thể gia hạn liên tục, từ đó đảm bảo an toàn cho các dự án đầu tư về bất động sản và thời hạn cho thuê có thể rất dài:

Nguồn thu từ các hợp đồng giao dịch này được phân bổ theo tỷ lệ 30% chuyển vào ngân sách Nhà nước, còn 70% cho ngân sách thành phố. Từ nguồn thu quan trọng này, các thành phố có thể tạo được nguồn vốn lớn đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông. Bên cạnh đó còn có khoản thuế đất chỉ nộp một lần duy nhất có giá trị tương đương 1,5% tổng giá trị tài sản. Thay vì áp đặt một cách có hệ thống các nghĩa vụ đóng góp cho quy hoạch và hạ tầng đối với các nhà đầu tư hoặc các chủ sở hữu, chính quyền các thành phố lại thích lựa chọn hai phương án khác: hoặc là yêu cầu các chủ đầu tư phải trực tiếp xây dựng các mạng lưới giao thông kèm theo hệ thống hạ tầng kỹ thuật thiết yếu, hoặc thương lượng với họ về việc xây dựng các cơ sở hạ tầng văn hoá phục vụ nhu cầu tại chỗ (trường học, trung tâm y tế, v.v…) tại những khu vực đã quy hoạch xong hạ tầng. Những công trình này sau khi được xây dựng xong sẽ thuộc quyền quản lý và khai thác của tư nhân hoặc sẽ được chuyển giao cho chính quyền thành phố quản lý nhưng theo những điều kiện không được xác định rõ ràng.

Bên cạnh đó, để đảm bảo việc đưa vào sử dụng một cách thuận lợi các khu mới được đô thị hoá – thường có diện mạo như những khu vực khép kín với quy mô hàng trăm, thậm chí hàng ngàn căn hộ – người ta thường thành lập mới hoặc lựa chọn các công ty dịch vụ thông qua hình thức mời thầu và do các ban đại diện dân phố quyết định. Nhìn chung, các công ty này đảm nhận việc quản lý các không gian công cộng, các công trình hạ tầng công cộng và đảm bảo duy trì hoạt động bình thường của các toà nhà chung cư. Về phần mình, các hộ dân phải trả một khoản phí hàng năm cho những công ty đó cũng như những phí dịch vụ riêng theo yêu cầu, thậm chí trong một số trường hợp có cả khoản phí để được ra vào một số công viên hoặc vườn hoa công cộng.

Tuy nhiên, do các nguồn kinh phí cần cho đô thị hoá đang và sẽ tiếp tục tăng mạnh, có lẽ hệ thống như nêu trên sẽ không thể tiếp tục vận hành theo cách đó. Vấn đề tạo nguồn thuế cho chính quyền địa phương có thể sẽ trở thành một đề tài chính trị. Từ năm 2007 đã bắt đầu nổi lên những tranh luận xoay quanh việc áp dụng một chế độ thuế đất kê khai hàng năm dựa trên giá trị quy thành tiền - một dạng property tax theo kiểu của Mỹ - mà các doanh nghiệp sẽ phải trả. Tiếp theo đó có thể sẽ là những tranh luận về hình thức thuế áp dụng đối với người dân.

Những cách làm mới

Trong trường hợp các khu vực phát triển mới hoặc cải tạo đô thị được triển khai tại những địa điểm đã từng được sử dụng như đất đô thị trước đây (các nhà máy cũ bị bỏ hoang) hoặc đang được người dân sử dụng (làm nhà ở, canh tác, làm cơ sở sản xuất kinh doanh quy mô nhỏ…), chính quyền các địa phương ở Trung Quốc thường phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến trưng thu đất. Cho tới tận những năm gần đây, những vấn đề này vẫn được xử lý căn cứ theo các quy định và được tiến hành hết sức nhanh chóng. Về nguyên tắc, vấn đề xã hội hết sức nhạy cảm này được chính quyền các thành phố chỉ đạo về mặt chính sách, song xét về khía cạnh kinh tế thì do chính NĐTBĐS được giao thực hiện dự án đứng ra lo liệu. Trong những dự án như vậy khó có thể có được những cuộc thương lượng thực sự và các khoản tiền đền bù không hoàn toàn thoả đáng bởi chính quyền thành phố đã xác định trước mức đền bù hoặc dự kiến trước quỹ nhà tái định cư, đồng thời quy định rõ thời hạn di dời cũng như thời hạn phá dỡ (thường là trong vài tháng). Cách làm kiểu áp đặt đó đã dẫn đến nhiều hành động phản đối của người dân. Thực ra phần kinh phí tái định cư đã được đưa vào nội dung hạch toán của những chủ đầu tư đảm nhận đồng thời cả hai khâu quy hoạch và xây dựng các công trình mới. Do các dự án cải tạo đô thị trong khu vực trung tâm thành phố chủ yếu chỉ nhằm hướng tới các đối tượng dân cư khá giả và trung lưu nên vấn đề nhà ở cho các đối tượng nghèo, đối tượng xã hội dễ bị xem nhẹ hoặc những đối tượng này thường được bố trí di dời ra các vùng ven đô. Kiểu nhà cho thuê giá rẻ (tương tự kiểu nhà HLM ở Pháp) không hề tồn tại.

Một khía cạnh khác hiện không được chú trọng trong các chính sách quy hoạch ở Trung Quốc là vấn đề giao thông công cộng bởi chính quyền các địa phương thường đưa ra những lựa chọn dành ưu tiên cho phát triển xe hơi cá nhân. Các NĐTBĐS dù dự kiến đầu tư một dự án quy mô nhỏ hay xây dựng cả một thành phố mới đều sẵn sàng mua những khu đất không hề được tiếp cận với giao thông công cộng mà cũng chẳng cần bận tâm đến việc phải quy hoạch phát triển giao thông công cộng. Chỉ có những tập đoàn quy mô lớn (Shui hoặc Soho) là có tính đến vấn đề này khi dự kiến các hệ thống hạ tầng bởi họ thường đầu tư vào những dự án tầm cỡ với mạng lưới giao thông bao trùm cả một vùng dân cư đô thị.

Trong bối cảnh như vậy, việc lập kế hoạch phát triển các khu đô thị mới vẫn được thực hiện theo mô hình phân khu riêng biệt với những khu dân cư chỉ dành thêm khoảng 5 đến 10% diện tích xây dựng cho văn phòng hoặc địa điểm kinh doanh thương mại. Cách quy hoạch theo kiểu phân khu phổ biến như vậy được áp dụng trong một hệ thống được chuẩn hoá và định sẵn quy mô một cách cứng nhắc dựa trên việc bố trí mạng lưới đường giao thông (thường không được phân cấp) và xen kẽ bởi những công viên lớn được quy hoạch theo cùng một kiểu gần tương tự như nhau.



Thiết kế đô thị nằm trong tay các nhà đầu tư BĐS

Vấn đề thiết kế đô thị (TKĐT) ở Trung Quốc bộc lộ hai vấn đề lớn liên quan đến quy mô địa bàn.

Với cấp độ địa bàn quy mô lớn và các vùng đô thị :

TKĐT được đề cập đến một cách rất trừu tượng thông qua các đồ án lớn theo kiểu quy hoạch chung của những năm 1970, là sản phẩm của các cơ quan quản lý quy hoạch, các viện nghiên cứu của các trường đại học hoặc các viện quy hoạch đô thị. Nội dung của những đồ án này phân chia địa bàn thành từng khu vực rộng rồi sau đó tổ chức cuộc thi thiết kế hoặc mời thầu đối với các NĐTBĐS. Có hai trường hợp có thể xảy ra:

  1. Những dự án mang tính biểu tượng rất cao gắn với những sự kiện lớn (triển lãm Expo 2010 và Olympic Bắc Kinh 2008). Các cuộc thi quốc tế được tổ chức với sự tham gia của những kiến trúc sư – nhà quy hoạch có tên tuổi để tạo nên những hình ảnh hoành tráng để rồi cuối cùng lại được các nhóm chuyên môn của Trung Quốc chỉnh sửa lại nhiều lần cho phù hợp với khả năng về ngân sách.
  2. Các khu đô thị có quy mô rất lớn kiểu như thành phố mới hoặc cải tạo cả một đô thị với diện tích từ 100 ha trở lên. TKĐT tại những dự án này do các NĐTBĐS tự quyết định với sự tham gia ý kiến của chính quyền địa phương.

Như vậy, tất cả các chức năng quyết định và chỉ đạo thực hiện dự án đều nằm trong tay doanh nghiệp tư nhân (đôi khi cũng có doanh nghiệp nhà nước). Phương án kiến trúc theo đúng nghĩa chỉ được lập trong vòng vài tháng. Hình ảnh của sản phẩm cuối cùng mới là điều quan trọng. Kiến trúc sư thiết kế luôn dành rất nhiều lựa chọn linh hoạt cho các kiến trúc sư phụ trách thi công và các kỹ sư xây dựng. Việc xác định hình thái kiến trúc cho dự án thường dẫn tới những kết quả rất khác nhau. Quả thực những kết quả này phụ thuộc vào chiến lược tài chính của NĐTBĐS đối với sản phẩm cần bàn giao và quan niệm của chủ đầu tư. Tiền thù lao cho kiến trúc sư thiết kế thường rất khiêm tốn, nếu là kiến trúc sư người nước ngoài thì thậm chí còn bị giảm đi. Các kiến trúc sư này có thể bị thay thế ngay lập tức nếu chủ đầu tư nảy ra một ý tưởng khác ! Cho đến tận những năm gần đây, các kiến trúc sư thiết kế vẫn chỉ là công cụ thể hiện các tiêu chuẩn mang tính hành chính cũng như các ý tưởng cho khách hàng của mình, đặc biệt là để tạo ra những hình ảnh lăng xê dự án và nhà đầu tư lên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên truyền hình. Hoạt động phê bình kiến trúc ít phát triển, văn hoá kiến trúc và quy hoạch hướng tới những giá trị tinh hoa không còn được chú trọng. Trung Quốc giờ đây tràn ngập những dự án đô thị với chất lượng trung bình cả về mặt kiến trúc và quy hoạch. Người ta luôn cố gắng làm thật nhanh và do các thửa đất thường rất rộng nên các dự án luôn được vẽ thành những hình khối vuông vức để tận dụng không gian khi đưa vào thi công. Nhờ làm chủ một cách thành thạo các công cụ tin học, các nhà chuyên môn luôn tạo ra những dự án gắn liền với các chính sách thông tin. Trong hầu hết các trường hợp đều có thể thấy ngay hậu quả nhãn tiền: một loạt các dãy chung cư cao tầng (nếu không muốn nói là đồ sộ) không cần quan tâm đến tính đa dạng của đô thị vốn đã tích tụ qua bề dày lịch sử, hoàn toàn lệ thuộc vào thói quen thi công và những kỹ thuật thể hiện tinh thần tận dụng đối đa.

Nhưng rồi mọi việc cũng thay đổi rất nhanh chóng. Những chủ đầu tư tư nhân có tiềm lực lớn bắt đầu mở rộng học tập và tiếp thu những kinh nghiệm hay của các nước trên thế giới và tạo ra triển vọng về sự chuyển biến trong xã hội Trung Quốc. Các mô hình khu trung tâm tài chính – thương mại (CBD) hay khu chung cư cao tầng và các dạng khu đô thị khép kín khác có chất lượng tầm thường dần được thay thế bằng những khu đô thị có tính phức hợp cao hơn, vận dụng kinh nghiệm quy hoạch của các nước châu Âu nhiều hơn thay cho những kinh nghiệm của Mỹ. Sự xen kẽ về công năng và phong cách kiến trúc bắt đầu xuất hiện, xu hướng vận dụng những hình thái kiến trúc hướng tới phát triển bền vững nhiều hơn, điều chỉnh quy mô ô phố thu gọn một cách hợp lý hơn. Các chủ đầu tư mặc dù vẫn quan tâm đến các chỉ số kinh tế, song cũng ngày càng chú ý tới khía cạnh chất lượng của các dự án, thậm chí bắt đầu thử nghiệm lập kế hoạch thăm dò những thị trường đang chuyển biến mạnh mẽ. Họ cũng áp dụng hình thức bàn giao các khu đô thị mới hoàn thiện chứ không bàn giao dần theo quá trình thi công như trước đây. Cách làm này dường như nhằm hai mục đích. Thứ nhất, họ muốn đợi một thời gian cho giá cả tăng đến mức đủ để thu được lợi nhuận tối đa. Thứ hai, họ muốn để các khách hàng tiềm năng thử nghiệm cấu trúc mới của các căn hộ hoặc các khu tổ hợp sản xuất – kinh doanh để điều chỉnh cho các chương trình sau.

Với cấp độ khu đô thị hay các dự án quy mô nhỏ :

Đây là vấn đề quyền hạn của chủ đầu tư trước vô số các chủ thầu trong nước và nước ngoài đang biến Trung Quốc thành một thiên đường mới trong lĩnh vực kiến trúc. Những chủ thầu này có những mối quan hệ rất đa dạng với các NĐTBĐS. Trong nhiều trường hợp, các nhà đầu tư không có được những ý tưởng cụ thể cho chương trình của mình. Khi họ chỉ có những dự án đơn giản hoặc rất mơ hồ, họ có thể giao cho các chủ thầu phác thảo cả về hình thái và chương trình triển khai dự án đó. Những bản phác thảo này có thể cũng không triển khai tiếp được hoặc hoàn toàn lạc hướng mà chính tác giả của chúng cũng không biết phải trình bày thế nào. Việc giao phó vai trò này cho các chủ thầu nước ngoài, nhất là các công ty của Pháp, được coi như một lợi thế đảm bảo cho uy tín và giá trị của dự án. Chính thông qua những hợp đồng này mà một số ý tưởng đã gián tiếp phục vụ được cho quá trình đổi mới tư duy kiến trúc và đô thị ở Trung Quốc.

Khi chương trình được thừa nhận và dựa trên một mô hình kinh tế vững chắc, đồng thời nếu NĐTBĐS có năng lực chuyên môn cao hơn, họ sẽ mời gọi những chủ thầu có uy tín về năng lực vốn chưa phổ biến nhiều tại Trung Quốc. Chẳng hạn với dự án xây một toà tháp văn phòng ở Thượng Hải, NĐTBĐS thể hiện rõ mong muốn xây dựng một công trình thuộc loại có chất lượng cao về mặt môi trường (HQE) và đạt những tiêu chuẩn tiện nghi gần ngang bằng với tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, họ đã lựa chọn một kiến trúc sư và đơn vị thi công đến từ Hồng Kông. Tuy nhiên, khác với trường hợp ở các nước châu Âu, các chủ thầu ở Trung Quốc ít khi được giao trọn vẹn một dự án. Dù trình độ chuyên môn đạt tới mức nào thì kiến trúc sư thiết kế cũng phải nhanh chóng nhường chỗ cho một đơn vị thi công trong nước để có thể áp dụng các tiêu chuẩn xây dựng hiện hành. Ví dụ điển hình nhất là sân vận động Bắc Kinh: một nhóm liên danh của Pháp (giữa Bouygues và Vinci) đã rất may mắn giành được hợp đồng tổ chức và chỉ đạo thi công, nhưng rồi chính họ cũng đã lựa chọn phương án chỉ đứng hàng thứ hai khi chỉ đạo đại công trường này vì những lý do liên quan đến mức thù lao và khả năng đối thoại với các cơ quan kiểm tra chất lượng công trình.



Một phương thức quy hoạch không có sự tham gia của cộng đồng

Trong bối cảnh tồn tại song song một hệ thống chính trị mang tính tập trung cao, được kiểm soát rất chặt chẽ và một nền kinh tế thị trường năng động, vấn đề đảm bảo quá trình quy hoạch diễn ra đúng tiến độ đóng một vai trò rất quan trọng. Trong khi đó, sự tham gia của cộng đồng cũng như những vấn đề đi kèm bị coi là gây chậm trễ cho khâu thiết kế và thi công hoặc chỉ gây thêm nhiều tranh cãi nên dễ trở thành những yếu tố gây rối loạn cho công tác quy hoạch. Vì vậy, sự tham gia của cộng đồng chỉ còn mang tính hình thức. Trường hợp điển hình nhất là dự án quy hoạch tại quận Từ Hối (Thượng Hải): bên cạnh những áp-phích thông báo việc thực hiện một dự án là một loạt số điện thoại của nhiều cơ quan hành chính chịu trách nhiệm tiếp nhận những ý kiến phản biện và đề xuất cho dự án trong vòng 15 ngày. Sau đó, các yêu cầu được gửi đến sẽ được một số cơ quan thành lập tạm thời xem xét và trả lời một phần rồi được đưa vào nội dung thông báo dán tại địa điểm thi công. Như vậy, sự tham gia của cộng đồng đã trở thành một hình thức thông tin cuối cùng trước khi tiến hành thi công. Có lẽ chẳng có cuộc họp nào mang tính phản biện hoặc cuộc tranh luận nào được tổ chức. Người ta duy trì một hệ thống với những hình thức tiếp xúc rất chung chung và các thông báo chính thức. Tóm lại là tránh đối thoại trực diện với người dân. Trong đi đó, với các nhà quy hoạch người Pháp, chỉ một sai lầm trong quá trình thực hiện các biện pháp huy động sự tham gia của cộng đồng cũng có thể làm nảy sinh những rủi ro có tác động rất lớn về mặt kinh tế đối với một dự án. Trái lại, một dự án làm tốt công tác này sẽ có thể giúp tạo thêm nhiều ý tưởng rất phong phú và thiết thực cho chính nội dung dự án.

Mặc dù vậy, thực tế nêu trên không có nghĩa là mô hình quy hoạch phát triển đô thị mang nặng tính áp đặt ở Trung Quốc không hề quan tâm đến việc lắng nghe ý kiến của người dân và những ý kiến phê bình. Những ý kiến này ngày càng xuất hiện nhiều trên báo chí. Những cuộc tranh luận thực sự và có tính xây dựng có thể vẫn được tổ chức, nhưng không được phép tiết lộ cho những đối tượng là người nước ngoài bởi quy hoạch phát triển đô thị vẫn luôn được coi là thuộc lĩnh vực chính trị nhạy cảm. Mặt khác, những ý kiến nhận xét và phê bình chỉ chủ yếu được phổ biến qua mạng Internet, nhất là đối với những dự án lớn (những nhà máy gây ô nhiễm hoặc có thể gây ô nhiễm, những dự án quy hoạch có quy mô lớn, v.v…). Trên thực tế, hình thức tham gia của cộng đồng vào quy hoạch ở Trung Quốc có lẽ được vận dụng theo hai mô hình chính:

Có lẽ phải sau vài năm nữa, khi quá trình đô thị hoá đã tương đối ổn định, hệ thống luật của Trung Quốc mới thực sự quan tâm đến vấn đề huy động sự tham gia của cộng đồng vào quy hoạch. Hiện trạng quy hoạch phát triển đô thị ở Trung Quốc hiện nay đang diễn ra với một tốc độ thần kỳ mặc dù có rất nhiều biểu hiện vận dụng các cách làm quy hoạch của nhiều nước khác nhau và những biểu hiện đó cũng được đáng giá theo nhiều chiều hướng khác nhau. Những kết quả đạt được là rất rõ ràng, thậm chí có thể chỉ rõ những mâu thuẫn do sự tăng trưởng trên diện rộng và ở một cấp độ chưa từng có. Cách đô thị hoá như vậy dễ khiến người ta liên tưởng đến một công cuộc xây dựng lại hoàn toàn cả một đất nước.

(Theo tạp chí Etudes foncières)


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn: