Ashui.com

Friday
Mar 29th
Home Tương tác Góc nhìn Người dân và chính quyền đô thị

Người dân và chính quyền đô thị

Viết email In

Ngày 7/10/2020, Bộ Nội vụ thay mặt Chính phủ trình nghị quyết “Tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM” để Ủy ban Pháp luật Quốc hội thẩm tra trước khi chính thức trình Quốc hội thông qua. Nghị quyết này nhằm giúp TPHCM tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, năng lực điều hành của chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm của một đô thị đặc biệt. Nhưng muốn đạt được kết quả thiết thực, cần phải có những thay đổi mang tính căn bản.


(Ảnh: Thành Hoa)

Mặc dù đã có nhiều thay đổi tiến bộ, nhưng về cơ bản bộ máy quản lý đô thị ở Việt Nam thực chất vẫn còn ảnh chịu hưởng bởi kiểu tập trung hóa chính trị cao theo mô hình kim tự tháp, kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp và không có sự khác biệt rõ ràng giữa quản lý đô thị và nông thôn.

Vì vậy mà việc xây dựng chính quyền đô thị ở các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng và sau này sẽ thực hiện trên toàn bộ hệ thống đô thị Việt Nam cho thấy cần cố gắng làm cho bộ máy quản lý đô thị của Việt Nam tiệm cận với mô hình quản lý đô thị của các nước tiên tiến và thực hiện quá trình hội nhập sâu rộng vào thể chế toàn cầu.

Mô hình chính quyền đô thị mà TPHCM hướng tới là tinh gọn bộ máy, tiến hành phân quyền sâu rộng xuống tới chính quyền cơ sở, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đẩy mạnh chính phủ điện tử.

Xây dựng chính quyền đô thị cần có sự thay đổi bản chất và toàn diện, mọi sự nửa vời có thể làm phá sản những mong muốn tốt đẹp của hai phía:người dân và lãnh đạo.

Thực tế so sánh từ Trung Quốc, Việt Nam với các nước châu Âu, Bắc Mỹ cho thấy, các quốc gia có thể chế chính trị khác nhau, nhưng vẫn có thể học hỏi và tiếp nhận nhau, nhất là về công cụ, kỹ thuật quản trị. Điều đó giống như trò chơi LEGO, người ta có thể lấy các module này ghép sang các khuôn mẫu khác. Chúng ta đã thay đổi để cho hệ thống hải quan, xuất nhập khẩu, ngân hàng, khách sạn, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, quy trình sản xuất tương thích với thế giới, có như thế thiên hạ mới đến làm ăn, hàng chục triệu khách du lịch đến chúng ta mỗi năm.

Trước hết là phân quyền

Phân quyền cho bên dưới là điều cực kỳ hệ trọng, tức là các cán bộ cấp phường, quận, thành phố trực thuộc (thành phố Thủ Đức chẳng hạn) phải được trao nhiều quyền hơn. Xưa nay, cái gì cán bộ cấp dưới cũng phải xin chỉ đạo, đợi có văn bản hướng dẫn, nay được vận hành theo chế độ “một thủ trưởng”. Điều này làm cho cấp dưới được quyền chủ động, sáng tạo trong công việc, giải quyết mọi việc, nhất là sự vụ, nhanh gọn, hiệu quả, thoát khỏi hiện tượng bao cấp về cả lịch làm việc hàng ngày.

Trong những năm qua TPHCM đã bắt đầu tiến hành phân quyền cho quận, huyện khá nhiều trong các lĩnh vực như nhà đất, các loại lệ phí, các giấy tờ hành chính lên quan đến sinh, tử, di chuyện đi và đến, cấp giấy phép mở các loại dịch vụ không thuộc nhóm nhạy cảm, kể cả việc huy động tài chính trong dân phục vụ cho công ích địa phương. Việc phân quyền này đúng và bước đầu đã mang lại nhiều thuận lợi hơn cho người dân.

Nhưng phải có cơ chế giám sát

Tuy nhiên, mặt trái của phân quyền sâu rộng là rất dễ tạo điều kiện cho một số quan chức địa phương quan liêu, lạm quyền, nhũng nhiễu, dọa nạt dân. Khi có quyền trong tay họ có thể tự “đưa ra luật lệ riêng” để làm khó dân. Điều này thường xảy ra, nhất là các loại phí địa phương, như phí chợ, phí vỉa hè, phí đo đạc kẻ vẽ nhà đất, phí trẻ con học trái tuyến, lạm thu các loại phí công ích mà không có mẩu giấy biên nhận nào theo quy định của Bộ Tài chính. Nhiều nơi hành người dân khổ sở và cực kỳ vô lý khi làm giấy khai sinh, khai tử, nhất là giấy phép cải tạo xây dựng nhà, trong thẩm quyền họ giải quyết được mà không ảnh hưởng đến tình hình chung của cộng đồng và pháp luật. Chưa kể UBND cấp phường và quận, huyện có quyền quyết định rất lớn đối với các dự án đầu tư công thuộc nhóm B và C, cũng như sử dụng ngân sách “tự có” của địa phương.

Làm thế nào để không xảy ra tiêu cực, trong khi để cho bộ máy công quyền gọn nhẹ, chỉ còn hai cấp và tập trung quyền lực vào một mối? Bản đề án đã đề nghị xóa bỏ hội đồng nhân dân cấp quận, phường vì lý do các hội đồng này hoạt động không hiệu quả.

Chúng ta hãy xem lại Luật Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ban hành năm 2003 (cho đến nay vẫn còn hiệu lực) có ghi rõ “Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương”.

Khi chủ trương bãi bỏ hội đồng nhân dân thì vô hình trung đã triệt tiêu một thiết chế có chức năng “kiểm sát, giám sát”, dễ dàng để cho các cán bộ lãnh đạo và cơ quan quyền lực làm sai. Thay vì đặt ra câu hỏi là tại sao từ trước đến nay hội đồng nhân dân hoạt động không hiệu quả, thì lại tính chuyện nhanh chóng bãi bỏ nó, khi bãi bỏ nó rồi thì câu hỏi ai thay thế bộ phận đó bị bỏ ngỏ.

Ở các nước phát triển, đặc biệt là ở hầu hết các nước châu Á như Thái Lan, Malaysia, Philippines, Singapore,... các tổ chức phi chính phủ (NGO) có quyền thay mặt nhân dân để giám sát các cơ quan quyền lực. Các tổ chức này ở các nước có sức mạnh rất lớn, chính NGO của Philippines đã hai lần bãi bỏ hai vị tổng thống là Joseph Estrada, và bà Tổng thống Gloria Macapagal Arroyo vì tội tham nhũng.

Sau khi bãi bỏ hội đồng nhân dân, thì Nhà nước giao công tác này cho mặt trận tổ quốc, nhưng thực tế cho thấy hiệu quả của hoạt động này còn mờ nhạt. Đây là một khoảng trống quyền lực của nhân dân đặt ra cho Nhà nước và Quốc hội cần lưu tâm.

Tiếp theo là trình độ chuyên môn và đạo đức công vụ của cán bộ công chức có nhiều điều chưa ổn.

So với những năm trước đây thì có tiến bộ hơn, người có trình độ học vấn cao đẳng, đại học nhiều hơn nhưng tính chuyên nghiệp khá thấp. Trong rất nhiều trường hợp, cán bộ vướng vào sai lầm không phải do đạo đức mà do trình độ yếu kém, nhận thức chưa tới.

Ở các nước phát triển, đội ngũ làm công chức nhà nước làm việc trong hệ thống quản lý đô thị bắt buộc phải qua các trường đào tạo bài bản, chẳng hạn như trường Hành chính công Lý Quang Diệu, trường Hành chính quốc gia Pháp... Ở TPHCM, khi bổ nhiệm người vào các vị trí lãnh đạo có khuynh hướng xem trọng lý luận chính trị, do vậy tình trạng đội ngũ cán bộ quản lý địa chính của phường, cán bộ quản lý đô thị của quận là do luân chuyển từ hội phụ nữ, mặt trận, phường đội qua không phải là hiếm, thậm chí ở cấp cao hơn cũng có trình trạng như vậy.

Việc cán bộ địa phương được đào tạo bài bản, làm việc chuyên nghiệp sẽ giảm bớt sai sót và đặc biệt là hiểu được đạo đức công vụ. Lịch sử suốt mấy chục năm hoạt động của trường Hành chính công Lý Quang Diệu ghi nhận số sinh viên tốt nghiệp từ trường này, sau đó làm việc trong bộ máy công quyền bị kỷ luật rất ít, điều đó cho thấy những người được học hành bài bản sẽ biết cách làm đúng và giảm bớt sai lầm trong quá trình tác nghiệp.

Một trong các nhân tố quan trọng nhất của quản trị đô thị là xây dựng cơ chế để tìm ra người giỏi tham gia vào bộ máy công quyền, và đặc biệt là người đứng đầu thành phố, quận. Ở các nước phát triển, từ cấp cao cho tới các cấp thấp hơn là thị trưởng các thành phố, thị trưởng các thị trấn vài ngàn dân đều được chọn lựa thông qua tranh cử công khai. Nhân dân đóng thuế trả lương cho họ, nhân dân có quyền phế truất nếu họ không xứng đáng, do vậy ngài thị trưởng và ekip của ông ta luôn đối mặt với thái độ và tình cảm của nhân dân. Điều này tránh được tình trạng muốn được bổ nhiệm thì phải được lòng cấp trên.

Xây dựng chính quyền đô thị cần có sự thay đổi bản chất và toàn diện, mọi sự nửa vời có thể làm phá sản những mong muốn tốt đẹp của hai phía:người dân và lãnh đạo.

Nguyễn Minh Hòa

(TBKTSG)


Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

 

Thêm bình luận


Mã an toàn
Đổi mã khác

Bảng quảng cáo