Ashui.com

Thursday
Mar 28th
Home Chuyên mục Quy hoạch đô thị Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long dựa trên 3 trụ cột: Kinh tế - xã hội - môi trường

Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long dựa trên 3 trụ cột: Kinh tế - xã hội - môi trường

Viết email In

Sáng 26/11, tại thành phố Cần Thơ, đã diễn ra Hội nghị báo cáo và tham vấn Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chủ trì Hội nghị, cùng với sự tham dự của lãnh đạo các bộ, ngành trung ương, lãnh đạo Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND và đại diện sở, ban ngành của tỉnh, thành trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hội nghị giới thiệu về nội dung chính của Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và thảo luận các vấn đề lớn, có tính chiến lược định hình sự phát triển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long cho giai đoạn phát triển dài hạn với tầm nhìn đến năm 2050, để từ đó giúp cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện Quy hoạch trước khi xin ý kiến chính thức bằng văn bản của các Bộ, ngành, địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, báo cáo trình Hội đồng thẩm định Quy hoạch vùng xem xét, thẩm định trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 12/2020. Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng trên nguyên tắc: “Bảo vệ người dân, cải thiện sinh kế, phát triển cân bằng và bảo vệ môi trường”.


Toàn cảnh Hội nghị.

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long phát triển chưa tương xứng với tiềm năng

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Đồng bằng sông Cửu Long là vùng lãnh thổ có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển đất nước, không chỉ là trụ đỡ, bảo đảm an toàn, an ninh lương thực, xuất khẩu nông sản, mà còn là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của cả nước. Năm 2019, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đóng góp trên 12% cho GDP cả nước. Riêng nông nghiệp của vùng chiếm 34,6% GDP toàn ngành nông nghiệp, đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 60% lượng trái cây của cả nước.

Trong thời gian qua, Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người của vùng vẫn thấp hơn 18% so với mức trung bình của cả nước. Đồng thời, vùng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức do tác động của biến đối khí hậu, các hoạt động phát triển ở thượng nguồn châu thổ, mặt trái từ hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, khai thác sử dụng tài nguyên với cường độ cao, thiếu bền vững, gây ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng.

Cơ cấu kinh tế nội vùng, nông nghiệp hiện là trụ cột phát triển kinh tế chính của vùng, nhưng phát triển chưa thực sự bền vững; chưa được khai thác hết tiềm năng; vẫn theo xu hướng tối đa hóa sản lượng mà chưa quan tâm đến chất lượng, hiệu quả; cơ cấu ngành Nông nghiệp nặng về thâm canh lúa với năng suất tuy cao nhưng chi phí lớn và giá trị gia tăng thấp; tài nguyên đất và nước bị khai thác cường độ cao, bắt đầu bị suy thoái và ô nhiễm.

Công nghiệp và dịch vụ chưa thực sự phát triển, nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp vẫn còn manh mún, chưa hình thành các chuỗi giá trị nông nghiệp hoàn thiện, và do vậy chưa tối đa hóa thu nhập cho người dân và doanh nghiệp.

Tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi trong phát triển của vùng. Tuy nhiên, các hoạt động phát triển thủy điện ở thượng nguồn, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, và việc quản lý và khai thác nguồn nước thiếu bền vững thời gian vừa qua đã làm gia tăng thách thức về an ninh nguồn nước, các vấn đề sạt lở, sụt lún, xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng, cùng với sự can thiệp ngày càng tăng và thiếu kiểm soát của con người vào tài nguyên của vùng đã làm thay đổi điều kiện tự nhiên của vùng, dẫn tới suy giảm đáng kể bản chất và độ bền vững của toàn bộ đồng bằng.

Phát triển đô thị và kết cấu hạ tầng của vùng chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Kết nối hạ tầng giao thông nội vùng, liên vùng, đặc biệt là việc kết nối với các trung tâm kinh tế lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam bộ còn kém phát triển, làm ảnh hưởng đến việc lưu thông, vận chuyển người và hàng hóa, tạo rào cản trong việc kêu gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời làm ảnh hưởng đến việc phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch.

Nguồn nhân lực nội vùng hiện tại đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Mặt bằng học vấn và tỷ lệ ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến của vùng thấp hơn mức bình quân chung của cả nước. Chất lượng giáo dục, y tế chưa đáp ứng yêu cầu. Lao động chủ yếu đến từ khu vực nông nghiệp chưa có tay nghề, trình độ còn thấp, trong khi đó, số lao động có chất lượng đang có xu hướng dịch chuyển sang vùng Đông Nam bộ, Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng khác. Phân bố dân cư phân tán trong khi số lượng dân số đang có xu hướng giảm do di cư.

Mặc dù còn khá nhiều thách thức tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu, dần chuyển đổi mô hình phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, từ chú trọng số lượng sang cải thiện mạnh mẽ chất lượng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng có rất nhiều lợi thế, cơ hội phát triển.

Quy hoạch dựa trên 3 trụ cột


Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại Hội nghị.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đã đề xuất nhiều nội dung mới về quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển cho vùng. Đó là phát triển bền vững trên cả 3 trụ cột: Kinh tế - xã hội - môi trường, là quan điểm chủ đạo của cả quy hoạch vùng và quy hoạch các địa phương trong vùng, quan điểm xuyên suốt trong cả giai đoạn tầm nhìn của quy hoạch là lấy yếu tố “con người” làm trung tâm, trở thành chìa khóa cho tăng trưởng và phát triển, lấy “thích ứng” với biến đổi khí hậu làm cách thức phát triển phổ biến, muốn tiến lên phía trước, bắt buộc phải thích ứng.

Thúc đẩy đổi mới, sáng tạo nhằm biến thách thức thành cơ hội. Đây là một quan điểm mang tầm nhìn tích cực, trong đó, không nhìn nhận vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng khó khăn, toàn thách thức mà ngược lại cần coi biến đổi khí hậu, nước biển dâng là điều kiện không thể tránh khỏi, điều quan trọng nhất là con người vận dụng, điều chỉnh và kiểm soát chúng thế nào để phát triển.

Nền nông nghiệp của vùng hiện vẫn đang nắm giữ rất nhiều sản phẩm ưa chuộng của thị trường thế giới với nhu cầu ngày càng tăng, như nông sản hữu cơ, tôm, cá tra, trái cây, lúa gạo… Điều quan trọng ở chỗ cần tận dụng tối đa cơ hội do các hiệp định thương mại thế hệ mới mang lại, thúc đẩy nông nghiệp hiệu quả cao trên nền tảng ứng dụng công nghệ cao để gia tăng giá trị, chất lượng của sản phẩm.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng: “Trước bối cảnh, cơ hội và thách thức mới, đã đến lúc phải thay đổi mô hình phát triển theo hướng tập trung hơn, phát triển các trung tâm kinh tế, các đô thị động lực, tập trung nguồn lực để tạo các “quả đấm thép” cho sự phát triển của vùng…

Chúng ta đều hiểu rằng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long không thể phát triển nhanh, bền vững nếu chỉ đi một mình. Do vậy, tăng cường liên kết là một quan điểm mang tính tất yếu, khách quan của quy hoạch phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Theo đó, cần xác định những định hướng và ưu tiên phát triển rõ ràng của toàn vùng và từng tiểu vùng. Mọi vấn đề lớn, quan trọng cần được giải quyết trong mối liên kết nội vùng, liên kết với vùng Đông Nam bộ, Thành phố Hồ Chí Minh, Campuchia, kinh tế biển (bao gồm cả biển Đông và vịnh Thái Lan), tạo cơ sở để các địa phương trong vùng cùng hướng tới mục tiêu phát triển chung.

Đầu tư là giải pháp tối quan trọng trong giai đoạn đầu của Quy hoạch vùng. Do vậy, cần thống nhất quan điểm trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu. Phát triển hạ tầng phải đi trước một bước để tạo nền tảng cho sự phát tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững của vùng. Ưu tiên phát triển hạ tầng có ý nghĩa quan trọng cấp quốc gia, cấp vùng như giao thông, năng lượng, và kết cấu hạ tầng phục vụ việc chuyển đổi mô hình phát triển của vùng trong thời kỳ tiếp theo, đặc biệt là phát triển kinh tế nông nghiệp”.

Theo đó, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long được nghiên cứu tiếp thu từ kinh nghiệm của Hà Lan, nơi có điều kiện tự nhiên, quy mô diện tích và dân số tương đồng với vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Lấy “thích ứng” với biển đổi khí hậu làm cách thức phát triển theo khẩu hiệu “muốn tiến lên phía trước, bắt buộc phải thích ứng”.


Bản đồ định hướng phát triển không gian tổng hợp vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Quy hoạch định hướng phân vùng sinh thái nông nghiệp nhằm tăng tối đa sản lượng và chất lượng, giá trị nông sản, đồng thời hài hòa với điều kiện tự nhiên môi trường. Phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới, trên cơ sở phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp, hành lang kinh tế và chuỗi đô thị động lực. Tập trung thúc đẩy mở rộng nuôi trồng thủy sản dựa trên nước mặn, nước lợ và phát triển “thuận thiên” để ngăn chặn xói mòn bờ biển và bờ sông. Phát triển công nghiệp theo hướng bền vững, thân thiện môi trường, đó là công nghiệp chế biến nông nghiệp hỗ trợ phát triển nông nghiệp là ngành mũi nhọn. Quan tâm đẩy mạnh phát triển du lịch theo thế mạnh, tiềm năng và đặc thù vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Xây dựng hệ thống đô thị thông minh, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng, gắn kết hợp với trung tâm đầu mối; bảo tồn các tài nguyên, hệ sinh thái quan trọng của vùng. Ưu tiên phát triển và mở rộng Khu công nghiệp, Kụm công nghiệp ở khu đô thị động lực vùng…

Tập trung phát triển hạ tầng để đi trước một bước nhằm tạo nền tảng cho sự phát tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ưu tiên phát triển hạ tầng có ý nghĩa quan trọng cấp quốc gia, cấp vùng như giao thông, năng lượng và kết cấu hạ tầng phục vụ việc chuyển đổi mô hình phát triển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong thời kỳ tiếp theo, đặc biệt là phát triển kinh tế nông nghiệp. Cải thiện hạ tầng cấp nước theo hướng coi nước mặn, nước lợ là một nguồn tài nguyên bên cạnh nước ngọt với trọng tâm là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi xâm nhập mặn và hạn hán, lấy nước mặt từ vùng nước mặt ngọt vĩnh viễn; giảm dần và tiến tớidừng sử dụng nước ngầm để làm chậm tốc độ sụt lún đất.

Khoanh vùng quản lý, bảo tồn và khai thác hợp lý những di sản văn hóa, tín ngưỡng quan trọng và chú trọng bảo tồn hệ sinh thái và môi trường vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tái tạo hệ thống rừng ngập mặn. Kết hợp phát triển rừng ngập mặn ven biển với xây dựng hệ thống đê, kè ngăn sóng, chống triều cường, chống sạt lở đất, tạo điều khiển bồi đắp phù sa, mở rộng bãi bồi ven biển. Bảo vệ đa dạng sinh học, động vật hoang dã và hình thành hệ thống sinh. Tập trung khôi phục và bảo vệ rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong chống xói lở, bổ sung tái tạo nước ngầm, giảm ảnh hưởng thủy triều và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.

Huỳnh Biển

(Báo Xây dựng)


Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

 

Thêm bình luận


Mã an toàn
Đổi mã khác

Bảng quảng cáo