Kiến trúc nhà vườn: Kho tàng văn hóa nghệ thuật độc đáo của dân tộc

Thứ ba, 13 Tháng 5 2014 14:21 Báo Xây dựng
In

Ngôi nhà truyền thống Việt Nam thường có một bộ phận không thể thiếu được đó là mảnh vườn. Do đặc điểm địa lý và khí hậu mà kiến trúc xây dựng nhà ở, cũng như cách sắp xếp, bài trí không gian xanh ở từng vùng miền có những điểm độc đáo và đặc trưng riêng. Nó phản ánh không gian thiên nhiên vô hạn, sự hài hòa giữa con người với môi trường xung quanh. 

Kiến trúc nhà vườn ở Việt Nam có thể chia ra làm hai loại. Kiến trúc nhà vườn nông thôn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và kiến trúc nhà vườn Huế.  


Vườn thượng uyển Huế
(ảnh: hueworldheritage.org.vn) 

Kiến trúc nhà vườn nông thôn ở vùng đồng bằng Bắc bộ

Từ ngàn xưa, trong quan niệm của những cư dân vùng châu thổ sông Hồng. Ngôi nhà không chỉ là nơi che nắng che mưa mà còn là nơi gìn giữ phong cách sinh hoạt văn hóa, tâm linh thuần Việt. 

Trong mỗi người con vùng quê hương Bắc bộ hẳn không còn xa lạ gì với hình ảnh cây đa, bến nước, mái đình, vườn cây, ao cá hay những cánh đồng xanh ngắt thẳng cánh cò bay…vốn đã rất thân thuộc với con người nơi đây.

Trước kia, khi muốn vào làng, người ta phải bước qua cổng làng. Cổng làng là nơi minh chứng biết bao kỉ niệm buồn vui của một đời người. Qua cổng làng, ta sẽ bước vào thế giới làng với hệ thống đường ngang ngõ tắt như xương cá, dù đi đến đâu, thì nhà nào nhà nấy cứ mở cổng là gặp ngõ, qua ngõ là đường làng. Làng được bao bọc bởi những luỹ tre xanh, sau luỹ tre là những mái nhà tranh ấm cúng.

Kiến trúc nhà vườn nông thôn ở vùng đồng bằng Bắc bộ xưa là những ngôi nhà một tầng đơn sơ, nền làm sát mặt đất tạo sự thanh toát, mát mẻ, vật liệu chủ yếu tận dụng những gì có sẵn ở địa phương như tre, nứa lá, rơm rạ. 

Khuôn viên nhà gồm: qua cổng đến vườn cây, vào đến sân rồi mới đến nhà chính, nhà phụ, nhà bếp, khu vệ sinh, chuồng nuôi gia súc, trâu bò, vườn sau ao trước, hàng rào cây bao quanh, bên ngoài bao bọc bởi lũy tre làng... tạo nên mô hình sinh thái khép kín vườn - ao - chuồng. Đây là nơi tăng gia và cũng là nơi cải thiện môi trường sống, tạo không gian thoáng đãng cho ngôi nhà.

Sự tích lũy vốn sống ngàn đời của những người nông dân, nhà cửa của họ khi xây dựng phải phù hợp với môi trường thiên nhiên, nương nhờ vào thiên nhiên. Người Việt rất coi trọng việc chọn địa điểm làm nhà, dựa trên kinh nghiệm và sự hiểu biết về vùng đất cư ngụ sinh sống, sao cho thuận lợi để tận dụng giá trị của đất. 

Kinh nghiệm quý giá của ông cha ta trong quá trình từ chọn đất, chọn hướng đến xây dựng nhà ở đều được tính toán rất khoa học. Vốn gần biển, trong khu vực gió mùa nên trong bốn hướng chỉ có hướng nam là tránh được nắng chiều hướng tây (nắng xiên khoai), gió lạnh từ phương bắc (gió mùa đông bắc), bão từ phía đông và hứng được gió nồm thổi đến từ phía nam vào mùa nóng. Ngoài ra, cha ông ta cũng còn dựa vào thuyết phong thủy để tìm những thế đất tụ linh, tụ phúc... phù hợp với vận mạng của từng gia chủ khi đặt móng xây nhà. 


Không gian cây cối mát mẻ um tùm, thật tĩnh lặng
 (ảnh: bdstn.com) 

Nhà ở của cư dân Bắc Bộ thường được làm với kết cấu ba gian hai trái, đối với những nhà khá giả thì có thể nhiều hơn và nguyên vật liệu làm khung nhà được chọn có thể là những cây gỗ tốt. Nhưng chủ yếu vẫn là gỗ mít, xoan hay tre có kết cấu vững chắc với vì kèo ba bốn cột, liên kết bởi xà ở đầu và bậu ở chân cột. Những vật liệu này được ngâm dưới nước một thời gian tăng độ bền, tránh mối mọt.

Để thoát nước mưa và tránh dột người ta thiết kế mái nhà dốc, tận dụng không gian từ độ dốc lớn làm thành gác, kệ lửng thêm chỗ để kho chứa thóc lúa, ngô khoai... Mái đưa ra xa chân tường vừa tạo nên bóng râm vừa tránh mưa hắt vào các chân cột gỗ và tường đất nện. Đồng thời, tạo thêm diện tích cho hiên nhà giúp tránh ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào trong nhà và nới rộng không gian sử dụng tiện ích cho ngôi nhà. Chất liệu lợp mái tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đình mà có thể là ngói hoặc tranh.

Người ta đã biết sử dụng tán lá cây để tạo không gian mát lành cho ngôi nhà, trồng những giàn cây leo quanh nhà như mướp, bầu bí… tạo thành các tấm che nắng tự nhiên, vừa tránh nắng nóng cho người và gia súc, chống chói do phản xạ từ các bức tường quét màu sáng quanh nhà, tận dụng lấy rau quả làm thức ăn. Tạo nên không gian vừa mát mẻ về mùa hè, ấm áp về mùa đông.

Diện tích khuôn viên thường chiếm tỉ lệ lớn hơn so với ngôi nhà, phần lớn được làm sân vườn trồng rau, hoa màu và cây ăn quả, làm hàng rào… tạo nguồn rau tươi, bóng mát có tác động điều hòa môi trường, che nắng, gió và chắn tầm nhìn vào nhà.

Kinh nghiệm dân gian khi lựa chọn cây trồng cạnh nhà là “trước cau sau chuối”. Vì vậy, cái lý của người xưa quả thật đúng khi ứng xử với khí hậu thời tiết: trồng cây lá rậm, lá to như cây chuối ở mặt nhà phía bắc để ngăn gió lạnh vào mùa đông, cản bức xạ mặt trời vào mùa hè (lúc này mặt trời ở hướng bắc); trồng cây có thân cao như cây cau ở phía nam của nhà để không ngăn cản gió mát mùa hè cũng như không che ánh nắng chiếu vào nhà về mùa đông (mùa đông, mặt trời ở hướng nam). 

Người xưa đã biết cách tận dụng triệt để việc trồng cây xanh quanh nhà, tạo thành vườn, làm hoa viên, ngoài chức năng tạo bóng mát, cải tạo khí hậu, trang trí… người ta còn tính đến việc khai thác giá trị kinh tế.

Vườn nhà thường gồm nhiều loại cây, rau. Sự chăm chỉ của người nông dân còn thể hiện ở việc tận dụng thời gian nông nhàn tăng gia sản xuất, trồng hoa màu cung cấp thêm nguồn thực phẩm và nhu cầu khác cho gia đình khi mà việc trồng lúa theo mùa vụ không đủ bảo đảm nhu cầu cho cuộc sống. Cây trồng trong vườn gồm nhiều loại có giá trị cho cuộc sống thường ngày của người Việt: loại cây tạo nguồn thực phẩm rau màu, cây ăn quả, cây gia vị, cây phục vụ nghi lễ, cây làm thuốc…

Qua đó, chúng ta có thể thấy cách ứng xử với các yếu tố thiên nhiên cho thấy khả năng thích ứng và chủ động của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong ứng phó và tận dụng thiên nhiên khi xây dựng không gian cư trú, thể hiện sự hòa hợp hoàn toàn với thiên nhiên.

Trong mỗi chúng ta cần ý thức được việc gìn giữ và bảo tồn các giá trị truyền thống. Đồng thời, phải có sự vào cuộc của những chuyên gia, những nhà quy hoạch kiến trúc sao cho phù hợp với khu vực nông thôn, vừa giữ gìn được những nét đẹp vốn có của nó mà vẫn mang hơi thở của cuộc sống hiện đại. 

Kiến trúc nhà vườn Huế 


Nhà vườn An Hiên
 (ảnh: dlvn) 

Khác với kiến trúc nhà vườn ở Bắc Bộ, nhà vườn Huế có những nét đặc sắc riêng mà chỉ có người dân cố đô mới có được. Trong khuôn viên nhà vườn Huế có nhiều loại cây hoa màu sắc phong phú, cây cảnh tạo dáng thẩm mỹ, cây bóng mát bốn mùa, cây ăn quả mùa nào thức nấy cùng với hòn non bộ bên bể cá vàng, chuồng chim cảnh... khiến cho khuôn viên nhà vườn Huế là một không gian sinh động thu nhỏ, vừa có lợi ích kinh tế, vừa có hiệu quả thẩm mỹ nghệ thuật.

Kiến trúc nhà vườn Huế là nghệ thuật tạo hình mô phỏng thiên nhiên trong một không gian giới hạn, làm nền tạo cảnh tôn cao giá trị công trình chính hoặc quần thể công trình. Vườn cảnh Huế chịu ảnh hưởng của vườn cảnh Á Đông, thường gồm ba thành phần: mặt nước, cây xanh và đá núi nhỏ.

Về tổng quan kiến trúc, nhà vườn Huế cơ bản chia làm ba loại: nhà vườn trong nhà ở, nhà vườn trong các công trình tín ngưỡng tôn giáo và nhà vườn trong triều đình.

Đầu tiên nói đến kiến trúc nhà vườn trong nhà ở, khuôn viên vườn là một phần không thể tách rời trong những ngôi nhà cổ truyền của Việt Nam. Đây là nơi tăng gia và cũng có thể là nơi cải thiện môi trường sống, tạo không gian thoáng đãng cho ngôi nhà. 

Tuy nhiên, không phải vì vậy mà nhà vườn Huế kém phần tao nhã sang trọng. Nhà vườn được bao quanh bởi rào chắn bằng một hàng dâm bụt tàu hoặc hàng chè tàu được cắt tỉa gọn gàng.

Kiến trúc chính trong vườn là ngôi nhà rường bằng gổ được chạm trổ tỉ mỉ, trang trí công phu làm nơi thờ tụ gia tiên, bên cạnh là nhà phụ làm nơi ở cho các thành viên trong gia đình. Không gian còn lại là hòn non bộ, bể cá, vườn cảnh...

Diện tích lý tưởng cho mỗi nhà vườn Huế khoảng từ 1.000 m2 đến 15.000 m2 với rất nhiều loại cây trái mang hương vị của cả hai miền Nam, Bắc như cam, quýt, thanh trà, xoài, măng cụt, nhãn, hồng nhung,... không chỉ tạo nên sự gần gũi với thiên nhiên cây cỏ mà còn thể hiện nét văn hoá đặc sắc trong phong cách sống của người dân cố đô.

Bên cạnh giá trị kinh tế thường ngày, nhà vườn Huế còn là nơi để chủ nhân nghỉ ngơi, vui thú điền viên sau những lúc làm việc vất vả. Hiện nay, Huế hiện còn lưu giữ được 2.800 ngôi nhà vườn lớn nhỏ trong đó có hơn 1.000 ngôi nhà vườn trên 200 năm tuổi, tập trung ở các phường Thuận Thành, Tây Lộc, Vỹ Dạ, An Cựu, Phú Xuân,... 


Huế - Chùa Huyền Không Sơn Thượng
 (ảnh: dulichhue.com.vn) 

Hệ thống nhà vườn Huế đã làm nên chiếc cầu nối giao thoa hài hoà giữa thiên nhiên và con người, làm nên nét riêng biệt trong văn hoá kiến trúc đô thị ở Việt Nam. Nhiều ngôi nhà vườn đã trở thành những địa chỉ du lịch đặc sắc như vườn An Hiên, Tịch Lạc Viên và hệ thống nhà vườn ở Phú Mộng - Kim Long.

Tiếp đó, phải kể đến kiến trúc nhà vườn trong các công trình tín ngưỡng tôn giáo. Các loại cây thường được trồng trong vườn của công trình tôn giáo tín ngưỡng là cây đa, cây si và cây đại... góp phần tạo cảnh làm nơi nghỉ ngơi cho khách thập phương đến thăm viếng và hành lễ. Đồng thời làm tôn giá trị nghệ thuật kiến trúc, tạo cảm giác thanh tịnh, trang nghiêm cho công trình tôn giáo. Hoa sen loại cây quen thuộc và phổ biến trong kiến trúc Phật giáo. 

Huế có rất nhiều những ngôi tổ đình, cổ tự danh tiếng lâu đời như Từ Đàm, Thiên Mụ, Từ Hiếu, Bảo Quốc, Huyền Không, Trà Am, Vạn Phước... Vì vậy, Huế coi như trung tâm Phật giáo của miền Trung.

Văn hoá kiến trúc nhà vườn Huế đã hoà quyện vào kiến trúc chốn thiền môn. Vườn chùa không chỉ là nơi lộc Phật cho muôn sinh mà còn là nơi cảm quan chiêm ngẫm lẽ nhân quả ở đời. Vườn chùa thấm đượm triết lý nhà Phật xanh tươi mà thoáng đãng như là nơi rũ bỏ những lo toan phiền muộn hàng ngày.


Chùa Báo Quốc (ảnh: dulichhue.com.vn)

Cuối cùng là kiến trúc nhà vườn trong triều đình. Từ trong cung ra ngoài nội có đến hàng ngàn khu vườn lớn nhỏ được hình thành và lưu giữ qua hàng trăm năm nay. Mỗi khu vườn gắn với một công trình kiến trúc riêng biệt, tạo nên hệ thống nhà vườn đặc sắc ở Huế.

Điển hình trong lối kiến trúc này là vườn cung và vườn lăng. Vườn cung(hay còn gọi là vườn thượng uyển) là nơi là nơi dành riêng cho vua và các quan lại cao cấp trong triều đình phong kiến đến du ngoạn và thưởng thức, thứ dân không mấy ai được đặt chân đến. Vì vậy kiến trúc vườn cung vừa thể hiện sự tự nhiên thanh thoát của cây, hoa, lá vừa phải toát lên sự sang trọng vương giả của các bậc đế vương như, vườn Thường Mậu, vườn Thiệu Phương, vườn Ngự Viên… Đáng tiếc là cho tới nay hệ thống vườn cung không còn nữa, mà tất cả chỉ còn là những hoài niệm dấu tích xưa.


Thượng uyển Cơ Hạ - Đại Nội Huế (ảnh: thuathienhue.gov.vn) 

Khác với vườn cung, vườn trong lăng của vua triều Nguyền lại là nơi để hoài niệm tưởng nhớ. Hệ thống vườn được thể hiện rõ nét nhất mô típ kết cấu nhà vườn truyền thống Huế, đó là những lăng Khải Định, Đồng Khánh, Tự Đức, Thiệu Trị, Minh Mạng… còn được lưu giữ tới nay.

Những công trình lăng tẩm thời nhà Nguyễn đều được xây dựng và tính toán rất cẩn thận. Từ kiểu dáng kiến trúc xen lẫn với hệ thống vườn tược rất cân đối hài hòa. 


Lăng Tự Đức (ảnh: baomoi.com) 

Trải qua hàng trăm năm, giữa chốn rêu phong lăng mộ u tịch, cỏ cây hoa lá nơi đây vẫn đơm hoa kết trái làm cho người ta liên tưởng đến chốn sinh sôi, nảy nở mà chẳng màng đến lão, bệnh, tử.

Bản sắc kiến trúc nhà vườn Việt phải chăng nằm ngay trong các không gian thuần Việt, chủ yếu do điều kiện sinh hoạt văn hóa, tâm linh Việt cấu thành.

Người Việt thời đại mới tuy phải chấp nhận những không gian ở tiện nghi hiện đại hơn nhưng có lẽ trong thâm tâm vẫn không thể tách rời lối ứng xử và trật tự truyền thống. Ra nước ngoài, cuộc sống mới phải hội nhập với người, với đời sống cộng đồng cư dân tại chỗ, phong tục tập quán, điều kiện thời tiết khí hậu địa phương rất khác ở quê hương. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cố quay về với quan niệm sống truyền thống, với những khu vườn Việt, với không gian mát mẻ, thoải mái sau những thời gian làm việc căng thẳng. 

Việt Khoa (Báo Xây dựng /tổng hợp) 


Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn: