Ashui.com

Thursday
Apr 25th
Home Tương tác Phản biện Đô thị biển Việt Nam - Tiếp cận vấn đề và đường hướng phát triển

Đô thị biển Việt Nam - Tiếp cận vấn đề và đường hướng phát triển

Viết email In

Việt Nam mình châu trời Đông 

Việt Nam nước thiêng tiên rồng 
Non sông như gấm hoa uy linh một phương 
Xây vinh quang sáng trưng trên Thái Bình Dương. 

Đó là lời thanh niên ta hát cách nay chừng 70 năm. Chan chứa niềm tự hào giống nòi chan chứa. Khát vọng tự chủ cháy bỏng tâm can. Ý chí vươn ra đại dương như một tiềm thức ngàn đời. 

… Đã là đầu thế kỷ XXI, ý chí ấy vẫn chưa là chủ đạo trong nhận thức, chưa biến thành lực đẩy phát triển quốc gia.

Quán tính lịch sử ghìm níu! 

 

1

Nhìn về dĩ vãng 

Tổ tiên ta từ trung du xuống đồng bằng, vật lộn với nước và với bùn, đào kênh, đắp đê, làm ruộng, dựng nhà trên nền đất, cắm cúi thâm cư, thâm canh châu thổ Nhị Hà. Chuyển dịch về phương Nam, chiếm cứ duyên hải Trung Bộ, làm ruộng và làm mắm. Khai khẩn châu thổ sông Cửu Long, vẫn trồng lúa và đánh bắt tôm cá trên sông, trên kinh rạch. Ra biển, chỉ loanh quanh ven bờ. Bởi thế, bản đồ giữa thế kỷ XIX, chưa thấy ghi cảng - thị nào.

Vân Đồn, trên đất Quảng Ninh, tồn tại từ thời Lý sang thời Trần, theo vết tích, phải chăng chỉ là bến hàng đến và hàng đi, thị cảng chưa hình thành.
Phố Hiến, trên đất Hưng Yên, hiếm hoi trong lịch sử đô thị Việt, chỉ là một giang cảng.

Hội An, thị cảng phồn vinh bậc nhất trong nền văn minh dân tộc, chưa hẳn là hải cảng, là phố cảng trên sông, kề biển.

Đô thị cảng chỉ bắt đầu hình thành từ nửa sau thế kỷ XIX, với Tourane (Đà Nẵng), Hải Phòng, Vũng Tàu và Nha Trang, muộn hơn.

Người Việt chúng ta trong suốt tiến trình lịch sử ít nhiều giao thương qua đường biển, song chưa bao giờ coi kinh tế biển là yếu tố quan trọng sống còn. Làm chủ giang sơn 2 phía là biển, ông cha ta ít hướng ra biển, co cụm trong đất liền, kiến tạo một gia tài thuần lục địa.

Sinh thời, giáo sư Trần Quốc Vượng nhận xét sắc sảo: Bởi không định hướng dứt khoát ra biển mà dân tộc mình muôn thuở nghèo.

2

Đô thị biển - nhìn từ giác độ văn hóa 

Chiêm nghiệm lịch sử: Các quốc gia biển bao giờ cũng phát triển nhanh hơn các quốc gia lục địa.

Thời cổ đại, Alexandria của Ai Cập, Pirey và Chersones của Hy Lạp, Constantinopole của Bizantine … tọa lạc trên bờ biển, duy trì những mối bang giao, khi nhân loại còn trong bóng đêm mịt mù. Xuyên suốt ngàn năm, từ thời cổ đại, sang trung đại và đến cận đại, Địa Trung Hải luôn là tâm điểm của phát triển và phồn vinh lan tỏa giữa 3 lục địa. Nếu ví đại khu vực này của thế giới là cái làng vĩ đại, thì Địa Trung Hải là cái ao vĩ đại ở giữa.

Thời phát triển tư bản chủ nghĩa, Pháp có Marseille, Đức có Hamburg, Hà Lan có Rotterdam, Thụy Điển có Stockholm, Anh có Liverpool, Mỹ có New York. 

Thế kỷ XVIII, Hoàng đế Pie đệ nhất nhận ra: Chỉ với Moscow nằm sâu trong đất liền, nước Nga không thể sánh vai cùng Âu châu. Ông quyết định một cách thiên tài, - xây Sankt - Peterbourg ngay trên vùng đầm lầy trên bờ biển Baltic. Đại thi hào A.Puskin gọi cái việc tày trời ấy là “đục thủng cửa sổ vào châu Âu”.

Đô thị - cảng biển không chỉ là đầu mối, mà là cầu nối trong sự phát triển của mỗi quốc gia và quốc gia khác. Không chỉ là pháo đài tiền tiêu trong phòng thủ. Đô thị - cảng biển, đô thị biển còn là một hiện tượng lịch sử văn hóa và nhân văn, là cơ thể đặc trưng, hấp thụ và tiêu hóa các luồng văn minh trong sự tuần hoàn, chuyển hóa cũng như cộng sinh.

Đô thị biển kích thích, thúc đẩy sự chuyển động của các cộng đồng xã hội, vốn thiên về sự tĩnh tại, do bị kìm hãm bởi những hệ tư tưởng và những thể chế xã hội quán tính.

Chiêm nghiệm: Cộng đồng dân cư các đô thị biển bao giờ cũng suy nghĩ năng động hơn, ứng xử linh hoạt hơn, giàu sức đề kháng hơn. So sánh Huế với Đà Nẵng theo góc độ này, sự chiêm nghiệm trên không phải không có cơ sở.

Từ phương diện lịch sử Việt Nam, ta có thể đưa ra vài đúc kết sau: 
- Hầu hết đô thị đặt trên bờ các con sông, song ít khi trên hai bờ sông.
- Ngoại trừ phố cảng Vân Đồn, Trung đại chưa xuất hiện loại hình đô thị biển.
- Đô thị - hải cảng, đô thị trên bờ biển chỉ hình thành ở nửa sau thế kỷ XIX. 

3

Sự phân bố đô thị dọc tuyến bờ biển

Sự phân bố đô thị và các cấu trúc dạng đô thị trên bờ biển thể hiện rõ 3 đặc điểm sau:
- Sự phân tán;
- Mật độ thấp;
- Thiếu liên kết.

Nghiên cứu bản đồ Việt Nam (Tập bản đồ hành chính của Nhà xuất bản bản đồ năm 2004), đếm được 28 tỉnh thành có biển trên cả thảy 64 tình thành, 10 đô thị trên bờ biển. 8 khu nghỉ mát nhỏ và vừa trên bờ biển. 2 đô thị biển thực thụ, - Đà Nẵng và Nha Trang. 3 đô thị biển loại vừa là Hạ Long, Quy Nhơn, Vũng Tàu. Một số đô thị từ hình thái kề biển đang chuyển sang tiếp cận biển như Phan Rang - Tháp Chàm, Phan Thiết, tương lai không xa là Thanh Hóa và Vinh. Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, tuy sở hữu những cảng lớn và là 2 cái “cửa sổ” rộng mở ra đại dương, vẫn nằm trong danh sách các đô thị duyên hải.

Các đô thị biển phân bố không đều, với những khoảng cách đôi khi nhiều trăm km. Thực trạng phân bố này phản ánh sự phân chia hành chính  lãnh thổ có từ thời vua Minh Mạng và thời Pháp thuộc. Nó chưa phản ánh đầy đủ những tiềm năng của tài nguyên thiên nhiên và những nhu cầu phát triển của đất nước. Nó cũng chưa thể hiện tầm tư duy chiến lược về công cuộc mở mang, phát triển quốc gia, một điều dễ bề giải thích.

Các đô thị to nhỏ ven bờ biển nằm trong sự liên kết rời rạc cả về không gian địa lý lẫn giao thông, trên đất liền và trên biển. Trên tuyến bờ biển kéo dài 3230km, chỉ hiện hữu 3 thành phố lớn là Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, Hạ Long, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu chưa thể liệt vào hạng những đô thị biển lớn và mạnh về kinh tế biển.

Mạng lưới đô thị biển ở ta có lẽ là khâu yếu trong tổng quy hoạch phát triển kinh tế dài hạn, trong tổng quy hoạch phát triển đô thị. Do đó, việc xây dựng quy hoạch mở mang các đô thị, các cấu trúc dân cư trên biển và duyên hải đang cần đặt ra một cách nghiêm túc. Nó phải đi trước, không chỉ một bước, vấn đề quy hoạch các đô thị biển. 

4

Phân loại các đô thị và các cấu trúc đô thị biển

Để phục vụ cho việc phân tích và vạch ra các hướng ứng xử, có thể phân loại các đô thị biển theo những tiêu chí:
- Theo niên đại xây dựng;
- Theo quy mô phát triển;
- Theo công năng;
- Theo hình thái;
- Theo sự sắp xếp hành chính;
- Theo tiềm năng phát triển v.v…

Trong trường hợp này, chúng tôi xem xét chủ yếu cục diện công năng, quyết định tính chất đô thị biển. Theo đó, phân thành:
- Đô thị biển đa năng, với tư cách là những trung tâm kinh tế  hành chính  dịch vụ;
- Đô thị  trung tâm hành chính trên bờ biển;
- Các khu nghỉ mát.

Đô thị biển đa năng, mà ở phần trên tạm gọi là “đô thị biển thực thụ”, là những thành phố trên bờ biển, là trung tâm hành chính, kinh tế và văn hóa của một vùng hoặc một tỉnh, trong đó nhân tố biển với tư cách là động lực phát triển, quyết định tính chất và hình thái đô thị. Hạ Long, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu có thể được liệt vào nhóm này.

Đô thị nằm trên bờ biển, chủ yếu là trung tâm hành chính của tỉnh, hoặc một đơn vị hành chính nào đó, với các nhân tố kinh tế, dịch vụ và văn hóa phát huy biển ở mức hạn chế, chưa hẳn là động lực phát triển. Nhóm này bao gồm Móng Cái, Đồng Hới, Tuy Hòa, Phan Rang  Tháp Chàm, Phan Thiết, Rạch Giá, Hà Tiên.
Nhóm sau cùng bao gồm những khu nghỉ mát trên bờ biển, trong quá trình phát triển có khả năng trở thành những cấu trúc đô thị hoặc những thị xã. Đó là Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Mũi Né, v.v…

Gần đây đang hình thành những hạt nhân đô thị biển mới, mà động lực phát triển chính là cảng và công nghiệp, điển hình là Vũng Áng ở Hà Tĩnh, Chân Mây ở Thừa Thiên  Huế , Dung Quất ở Quảng Ngãi, Nhơn Hội ở Bình Định.

Việc phân loại trên phần nào mang tính ước lệ, bởi các đô thị và các cấu trúc dân cư đô thị biển ở nước ta đều ở trong quá trình định hình và phát triển.

5

Vài nhận định về hiện trạng

Các đô thị và các cấu trúc đô thị ven biển có những đặc điểm sau:
- Hầu hết các đô thị cũ và mới, to và nhỏ, đều có quy hoạch ở dạng phôi thai kéo dài hoặc chưa hoàn chỉnh; quỹ kiến trúc đô thị không lớn và nghèo nàn, trong tình trạng xuống cấp, đặc biệt yếu kém về hạ tầng kỹ thuật.
- Nằm ngay trên bờ biển hoặc sát kề bờ biển, các đô thị chưa định hướng và trực diện ra biển; quy hoạch chưa phản ánh sự tác động chủ đạo của nhân tố biển. Ngoại trừ các công trình du lịch nghỉ mát, diện mạo kiến trúc nói chung ít thể hiện tính chất đô thị biển, mà mang nặng dấu ấn của những thị xã hàng tỉnh
- Ngoài Nha Trang và Vũng Tàu ra, các đô thị trên biển vẫn chưa tạo dựng cho mình diện mạo đặc trưng, chúng chưa có được hình ảnh đô thị biển đặc trưng và của riêng mình. 

6

Những xu hướng cải tạo và phát triển

Hai thập niên gần đây, cùng với công cuộc đô thị hóa, các đô thị và các khu dân cư ven biển hiện đại hóa nhanh chóng, theo những chiều hướng sau:
- Mở rộng quy mô, hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, cải tạo và nâng cấp quỹ kiến trúc, nhân lên gấp bội khối lượng xây dựng mới.
- Xu hướng phát triển kinh tế du lịch và dịch vụ, trở thành nhân tố kích thích và thúc đẩy mạnh sự “đổi đời”, “đổi hướng” của các đô thị, tạo cho chúng diện mạo hiện đại, với những biểu hiện rõ nét hơn về tính văn hóa, tính nhân văn và sinh thái.

Sự phát triển đột biến của Đà Nẵng trong ngót 10 năm qua là một ví dụ. Sự đầu tư ưu tiên cho hiện đại hóa và mở rộng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, sự lan tỏa về các phía, đặc biệt việc mở đường nối kết những không gian vốn bị xé lẻ của tuyến bờ biển, từ Nam chân đèo Hải Vân, sang Sơn Trà, Mỹ Khê, Non Nước, đến huyện Điện Ngọc và Hội An, cùng với những chiếc cầu vượt sông Hàn, đã cơ bản biến Đà Nẵng thành đô thị biển đích thực.

Quy Nhơn là một ví dụ điển hình về sự chuyển đổi lột xác, từ vị thế thị xã  tỉnh lỵ khép kín sang mô hình đô thị mở và hiện đại trong tương lai gần, chính bởi việc tái định hướng dứt khoát ra biển. Với những việc như giải tỏa và nâng cấp cảnh quan dải đất ven biển, mở toang các không gian đô thị, xây cất hàng loạt khách sạn, khu nghỉ mát sinh thái, các công trình khác có kiến trúc hiện đại, cùng dự án khu kinh tế Nhơn Hội,  Quy Nhơn có thể trở thành hình mẫu trong cuộc sống hiện đại hóa và phát triển chuỗi các đô thị biển ở miền Trung.

Phan Thiết là một ví dụ khác biệt. Trăm năm là thị xã  tỉnh lỵ với sản phẩm nước mắm mang lại thương hiệu cho bản thân đô thị, Phan Thiết nhanh chóng trở thành một trung tâm du lịch nghỉ mát lớn, khai thác thế mạnh bị lãng quên là biển và những thế mạnh chưa hề nghĩ tới là nắng khô và sa mạc hóa.

Phân tích quá trình phát triển Phan Thiết cho ta những kinh nghiệm về việc cải tạo và hiện đại hóa một đô thị hàng tỉnh cũ thành một đô thị du lịch nghỉ mát,  một hình thái đô thị hẳn sẽ có sự phổ cập trong những năm tới ở nước ta. 

7

Những vấn đề trong phát triển đô thị biển

Dễ dàng nhận ra những thay đổi tích cực về hướng hiện đại hóa ở các đô thị và các cấu trúc đô thị biển trong những năm qua. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang xuất hiện, một số trong đó đã trở thành những thách thức nghiêm trọng cho cả hôm nay và đặc biệt cho ngày mai.

Vấn đề thứ nhất: Việc xây dựng tổng quy hoạch phát triển kinh tế  xã hội vùng duyên hải, trong đó có việc nghiên cứu và quy hoạch hệ thống các đô thị biển, chưa được chú trọng, như các vùng miền khác. Chẳng hạn cần phải xác định hợp lý sự phân bố các cảng và các đô thị cảng, sự lựa chọn ưu tiên trong khai thác tài nguyên bờ biển; xác lập những khu vực và những tuyến bờ biển cho các hoạt động kinh tế du lịch. Vừa có hiệu quả vừa tránh được sự phung phí tài nguyên.

Vấn đề thứ hai: Văn hóa ứng xử với tài nguyên thiên nhiên. Bờ biển nước ta đặc biệt giàu có và đa dạng về tài nguyên, trong đó tài nguyên cảnh quan là một thế mạnh, cho đến nay ta đánh giá chưa đúng mức. Trong đà xây dựng các đô thị biển hiện nay, bộc lộ rõ một cách thách thức: sự lạm dụng quá mức đất đai, sự xâm hại các giá trị cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan kiến trúc, nạn ô nhiễm môi trường bởi xây dựng và chất thải v.v… Cần nghiêm túc cảnh báo việc hạ thấp độ cao của đảo Tuần Châu (Quảng Ninh) để lấy đất để lấn biển, việc xây dựng với mật độ quá cao ở đây, tổn hại đến cảnh quan của vùng vịnh là thắng cảnh tầm cỡ thế giới. Cũng ở Hạ Long đang diễn ra tình trạng xẻ núi, lấn biển lan tràn ở ngay những vị trí tiền tiêu.

Vấn đề thứ ba: Hầu hết các đô thị trên bờ biển vốn là những trung tâm hành chính và kinh tế, do tọa lạc ở những vùng đất có nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, nhất là về khí hậu và cảnh quan, nên được đầu tư nhiều và nhanh xây dựng các công trình du lịch và nghỉ mát. Tuy nhiên, thấy rõ ở Phan Thiết, Quy Nhơn, Nha Trang, Đà Nẵng, quy hoạch xây dựng các khu du lịch  nghỉ mát hoặc chưa có hoặc có mà chưa được tuân thủ. Bờ biển bị chia vụn thành lô, thành thửa. Điều này bộc lộ rõ ở Mũi Né,  hàng chục công trình du lịch  nghỉ mát chỉ được nối với nhau bằng một tuyến đường hẹp và dài hàng chục km. Bãi biển vô giá này đang chung số phận của các đô thị, nơi người sở hữu đất và đầu tư vốn quyết định diện mạo đô thị, thay cho người quản lý. Nhà nghỉ mát thì có, kiến trúc của khu nghỉ mát thì không, đô thị lại càng không thành đô thị biển.

3 vấn đề nêu trên đều liên quan đến những bài học về khai thác tài nguyên bờ biển. Ông cha ta ít đoái hoài đến biển (bài học lịch sử), nên bờ biển bị suy xuyển. Nay chúng ta khai thác mạnh tay hơn, song lại thiếu sự tính toán, lại tham lam quá độ, ắt sự cạn kiệt là lẽ nhãn tiền (bài học thời nay).

8

Cần có chiến lược quốc gia về sử dụng tài nguyên bờ biển

Bàn về quy hoạch và xây dựng các đô thị biển, không thể không đề cập tới một nhận thức và luận điểm ở tầm vĩ mô: phi lục địa hóa.

Trong lịch sử ông cha ta đã kiên trì tư duy lục địa, hướng lên núi và lên rừng nhiều hơn là hướng ra biển,  chăm chú kinh tế trồng trọt mà sao nhãng kinh tế đánh bắt. Chăm chú xây đắp xóm làng mà ít đầu tư xây dựng những cảng, những điểm dân cư trên bờ biển. Hậu quả từ lịch sử thế nào, đã rõ.

Ngày nay, chúng ta chưa thoát khỏi lực quán tính của tư duy này. Thể hiện vĩ mô: Chiến lược khai thác bờ biển và biển chưa được vạch ra một cách toàn diện và đủ tầm; đầu tư cho sự phát triển địa bàn này chưa đủ tập trung; công cuộc cải tạo và mở mang các đô thị biển phần nào mang tính cục bộ và tự phát; những định hướng cho sự phát triển của chúng ta chưa được xác định ở phạm vi quốc gia. Thể hiện vi mô: Các đô thị gần biển trong sự phát triển đang khai thông ra biển bằng cách mở trục lộ đâm thẳng ra biển, được “khang trang hóa” một cách phô trương bằng những dải cây cỏ, những hàng cột đèn giả cổ đắt tiền (như đường Phạm Văn Đồng ở Đà Nẵng chẳng hạn), song chúng lại dẫn đến những khu du lịch nghỉ mát manh mún tự phát. Quy hoạch dạng này vẫn chưa phản ánh đầy đủ tư duy chủ đạo về định hướng và tổ chức không gian đô thị biển, tư duy dựa vào sự lựa chọn biển như là một động lực chính cho phát triển kinh tế, cho quy hoạch và cho việc tạo lập tính chất kiến trúc đô thị biển.

Một ví dụ thái cực nữa theo chiều hướng tư duy quán tính này: Một thị xã ở miền Trung nằm giữa biển và núi, với những khoảng cách bằng nhau. Các nhà lãnh đạo vẫn chọn hướng phát triển vào núi!

Cùng với công cuộc phát triển của đất nước, để thực hiện sự hội nhập với nhân loại, chúng ta cần khắc phục lối mòn trong tư duy truyền thống, thực hiện phi lục địa hóa tư duy, cả đối với quốc gia nói chung, cả đối với vùng đất ven biển nói riêng.

Người Nhật, sống trên các hòn đảo giữa biển khơi, nhiều thế kỷ duy trì tư duy lục địa, tư duy co khép vào mình. Thời Minh Trị, thế kỷ XIX, họ vứt bỏ sự ràng buộc muôn kiếp đó, họ dứt khoát phi lục địa hóa tư duy và từ đó,  phi lục địa hóa kinh tế cùng văn minh. Họ đạt được những gì, ai cũng rõ.

Chúng ta, e nói có phần to tát, cần phải thực hiện phi lục địa hóa. Với công cuộc khai thác tài nguyên bờ biển, cần phi lục địa hóa tư duy kinh tế và xây dựng.
Phi lục địa hóa tư duy về phương diện biển, trước hết ám chỉ sự điều chỉnh cái nhìn và cách nhìn cố hữu, cân bằng sự đánh giá tài nguyên đất nước, xác định hợp lý, hợp thời hơn “phần lưng” và “phần mặt” của quốc gia, dành sự ưu tiên cho xây dựng mở mang vùng đất ven biển, nhất là thời nay đang có sự tái định hướng địa lý kinh tế khu vực và toàn cầu.

Phi lục địa hóa về phương diện kinh tế trước tiên ám chỉ sự đánh giá toàn diện và đầy đủ những tiềm năng của tài nguyên bờ biển, sự nhận thức phát triển kinh tế bờ biển như một đòn bẩy nền kinh tế quốc gia, trong đó thương mại và công nghiệp như những yếu tố đương nhiên, bắt buộc, trong đó kinh tế du lịch như một thời cơ mang tính chất vận hội của tài nguyên thiên nhiên Việt Nam, được nhận ra từ phía ngoài nhiều hơn và trước hơn từ phía trong.

Phi lục địa hóa xây dựng vùng đất ven biển là việc đề ra trên cơ sở khoa học một chiến lược thiết lập hệ thống các đô thị và cấu trúc đô thị trên bờ biển và vùng duyên hải, với sự xác định các động lực phát triển là lợi thế, là nhu cầu và là đặc trưng cho toàn tuyến bờ biển, cho từng đại vùng và từng tiểu vùng; với sự phân bố hợp lý từ đấy các thể loại đô thị to và nhỏ trên cơ sở những định hướng và định tính cụ thể. 

9

Đô thị du lịch nghỉ mát và sinh thái với tư cách một loại hình phù hợp và đặc trưng trong hệ thống đô thị biển Việt Nam 

Luận điểm này được đưa ra trên những cơ sở sau:

Thứ nhất: Các đô thị cảng, các đô thị thương mại và công nghiệp, khai thác trực tiếp lợi thế và tiềm năng biển, là thể loại đô thị đương nhiên trong công cuộc phát triển kinh tế ở các nước và ở nước ta.

Thứ hai: Sự phát triển nổi trội của kinh tế du lịch trong những năm qua cho thấy Việt Nam có thể lấy yếu tố này làm thế mạnh để làm giàu và phồn vinh. Cơ sở khách quan:
- Tài nguyên thiên nhiên phong phú và còn tương đối nguyên vẹn;
- Các điều kiện khí hậu phù hợp và khác biệt;
- Cảnh sắc thiên nhiên muôn hình muôn vẻ và hiếm thấy;
- Di sản văn hóa và đặc biệt văn hóa sống ở trạng thái thời kỳ tiền công nghiệp hóa, có sức thu hút lớn. Tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn dẫn đến những hình thức du lịch tham quan, nghỉ mát và nghỉ dưỡng theo hướng văn hóa và sinh thái.

Xu hướng du lịch nghỉ dưỡng văn hóa hoàn toàn phù hợp với những điều kiện nêu trên, hơn thế nữa, nó ít làm tổn hại đến quỹ tài nguyên thiên nhiên, ít tác hại đến văn hóa dân tộc.

Quan sát: Công cuộc phát triển du lịch những năm qua đã dẫn đến sự thay đổi về bản chất nhiều đô thị ven biển. Lấy Vũng Tàu, Phan Thiết, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Hạ Long làm ví dụ. Các đô thị này không chỉ bổ sung nhiều khách sạn du lịch ở thành phố, mà còn nối dài bởi chuỗi các khu nghỉ mát dọc bờ biển, thậm chí có thêm những cấu trúc đô thị dạng vệ tinh, với công năng chính là du lịch và nghỉ mát. Sự chuyển đổi này là do các đô thị đều tọa lạc trên những vùng đất giàu tiềm năng về du lịch.

Trong chiều hướng đó, các đô thị  thị xã vốn cũ kỹ và khép kín, nay bước vào giai đoạn đổi đời thay sắc, hầu như tự phát, cũng trở thành loại hình đô thị đặc trưng của tuyến bờ biển Việt Nam, đô thị du lịch  nghỉ mát.

Cải tạo thích ứng với các nhu cầu hiện đại hóa và trước tiên nhu cầu phát triển du lịch  nghỉ mát, các đô thị ven biển đồng thời với sự nâng cấp kiến trúc và cải thiện môi trường, đang đi theo xu hướng sinh thái hóa.

Công cuộc sinh thái hóa các đô thị biển hoàn toàn mang tính khả thi. Chúng ta cần xác lập quan niệm, tiêu chí tương thích, nhất là mô hình chuyển đổi một đô thị lạc hậu về tổng thể, thiếu tiện nghi toàn phần, sang đô thị sinh thái, dễ chịu cho cả chủ nhân lẫn khách. 

10

Những bất lợi của thiên nhiên đang trở thành lợi thế

Ở miền Trung, do chỉ chăm chú trồng trọt và đánh bắt thủy sản ven bờ mà đồng bào ta nghèo đến cùng kiệt và muôn đời. Bão, lũ, hạn hán biến mọi công sức và sự nhẫn nại tột đỉnh, chỉ thấy ở người dân miền Trung, thành những thu nhập tối thiểu hóa. Ninh Thuận và Bình Thuận, nắng nóng và khô hạn quanh năm, là hiện thân của sự cùng kiệt các cơ may sống khấm khá lên.

Thực tiễn hôm nay cho ta những lối ra bất ngờ: Chính những bất lợi ấy trở thành lợi thế. Nắng nóng quanh năm, độ khô, sự sa mạc hóa và những bãi biển vô cùng tận, cùng nước biển sạch và thủy sản tươi sống là xuất phát điểm lý tưởng cho ngành du lịch nghỉ mát tắm biển. Mũi Né là một minh chứng.

Miền Trung nghèo có cơ may biến thành miền Trung giàu, chính là bằng kinh tế du lịch nghỉ mát, với công cuộc đô thị hóa theo hướng kinh tế du lịch.

Vấn đề ở chỗ là chúng ta chủ động bài toán kinh tế này ra sao?

Bằng sự tự phát và chia thửa như hiện nay?

Hay bằng một sự tiếp cận thấu đáo, giải quyết đủ tầm và đủ khoa học, như những ông chủ đích thực?

Miền Trung, miền đất hứa cho những đô thị biển sinh thái.

Trên suốt chiều dài 3260km bờ biển nước ta, miền Trung có những thuận lợi nhất để thiết lập chuỗi đô thị biển, đặc biệt đô thị có định hướng dịch vụ du lịch nghỉ mát. 

Những tài nguyên thiên nhiên đặc sắc và nhiều tiềm năng khai thác:
-Từ Cửa Tùng đến Quy Nhơn (450km): Phá Tam Giang, đầm Cầu Hai, phá Thị Nại, mũi Chân Mây, bãi biển Lăng Cô, mũi Hải Vân, mũi Ba Làng An, bán đảo Sơn Trà, cù lao Chàm.
-Từ Quy Nhơn đến Mũi Đinh (200km): vũng Hòn Khói, vũng Văn Phong, Vũng Rô, Sông Cầu, vũng Cam Ranh.
-Từ Mũi Dinh trở vào (800km): Sa Huỳnh, Ninh Chữ , Cà Ná, Mũi Né và Vũng Tàu.
Những dải vùng này đặc trưng bởi địa hình địa thế; bởi cảnh quan thiên nhiên muôn hình muôn vẻ, bởi những thông số khí hậu càng về hướng Nam càng ít biến động theo mùa, bởi nước biển không bị phù sa của các con sông làm vẩn đục, bởi những di sản văn hóa và truyền thống cuộc sống cộng đồng dân cư.
Trên cơ sở này ta cần phân định những đại vùng và những tiểu vùng; xác định quy mô và mật độ phân bố đô thị cùng các cấu trúc dân cư đô thị; xác định vùng lan tỏa chi phối của các đô thị hạt nhân.

11

“Biển hóa” quy hoạch và kiến trúc các đô thị biển

Ngoại trừ Nha Trang và Đà Nẵng ở mức độ nhất định, các đô thị biển ở nước ta hầu hết về quy hoạch và kiến trúc chưa bộc lộ rõ đặc điểm hết sức cơ bản này.
“Biển hóa” quy hoạch đô thị biển bao gồm trước tiên việc định hướng và khẳng định sự quay mặt ra biển của các đô thị; việc cải tạo mạng lưới đường phố với những trục chính hướng ra biển; việc tạo không gian phân cách và nối kết biển với thành phố; việc nhấn mạnh các đặc trưng hình thái bờ biển trong tổng cảnh quan đô thị v.v… 

“Biển hóa” kiến trúc đô thị biển được hiểu là việc tạo nên hình ảnh diện mạo kiến trúc tổng thể, diện mạo kiến trúc từng công trình theo tinh thần thoáng và mở ra biển, ra thiên nhiên, với các tính cách trang nhã và hiền hòa, với tinh thần toát ra từ xứ nhiệt đới nóng ẩm. Đặc biệt cần coi trọng việc lồng ghép hữu cơ kiến trúc đô thị vào nền cảnh thiên nhiên với tư cách là xuất phát điểm. Coi trọng việc chỉnh trang, điều tiết và tạo lập diện mạo đặc trưng cho những đường phố chính quay mặt ra biển. 

Kiến trúc đô thị biển, cũng như kiến trúc đô thị miền núi, thường khá dễ dàng có được diện mạo riêng, dễ dàng có thương hiệu. Điều này phụ thuộc hoàn toàn ở cách ứng xử, cách làm của ta. Đó là một phạm trù văn hóa. 

Đô thị biển, hễ biết dựa hẳn vào tài nguyên và khung cảnh Trời phú cho, hễ được xây dựng từ bản chất và hình thái mà chúng phải có, ắt hẳn sẽ là một sự đóng góp quan trọng vào việc tạo lập diện mạo mới cho đất nước ta, cho bản sắc hệ thống các đô thị Việt Nam thời nay.   

Hoàng Đạo Kính 


Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

 

Lời bình  

 
+2 # Thái Thanh 11/04/2013 02:35
Xin cám ơn GS. Hoàng Đạo Kính về bài viết quý giá này.
Trả lời | Trả lời kèm trích dẫn | Trích dẫn
 

Thêm bình luận


Mã an toàn
Đổi mã khác

Bảng quảng cáo